16 tháng 10 2011

LIỆU PHÁP PHÂN TÂM CỔ ĐIỂN - CƠ SỞ LÝ LUẬN
BS NGUYỄN MINH TIẾN

Sigmund Freud (1856-1939) là cha đẻ của phân tâm học và đồng thời cũng là một nhà thực hành phân tâm. Theo Freud, hành vi của một con người được xác định bởi cả những yếu tố bên trong nội tâm (intrapsychic) lẫn những yếu tố trong mối quan hệ liên cá nhân (interpersonal). Con người không làm chủ được số phận của mình, vì hành vi được dẫn dắt bởi bản năng và việc thỏa mãn các nhu cầu sinh học cơ bản. Hành vi không có tính ngẫu nhiên mà đã được xác định bởi những trải nghiệm trong quá khứ.
 

Các mức độ nhận biết của tâm trí

Freud (1935) phân chia hoạt động tâm trí thành ba khu vực với ba mức độ khác nhau về sự nhận biết:
  • Ý thức (conscious): tầng mức hoạt động của tâm trí mà con người có thể nhận biết được thông qua tư duy, ý tưởng và cảm xúc.
  • Tiền ý thức (preconscious): làm phần ký ức có thể gợi nhớ lại được.
  • Vô thức (unconscious): theo Freud, đây là phần quan trọng nhất của bộ máy tâm trí vì đó phần quy định nên những hành vi của con người. Con người không thể nhận biết được những hoạt động đang diễn ra trong phần vô thức.
Theo lý thuyết phân tâm, tầm quan trọng của các cảm xúc bên trong vô thức là ở chỗ chúng thường xuyên cố gắng thoát lộ lên trên phần ý thức và mỗi người đều phải cố gắng đầu tư năng lượng để giữ chúng lại bên trong vô thức. Freud xem con người luôn ở trong trạng thái xung đột nội tâm thường xuyên với những gì mà bản thân không tự nhận biết được.

Cấu trúc của nhân cách

Về sau, trong khi vẫn giữ sự phân chia tâm trí thành ba mức độ nhận biết nêu trên, Freud đưa ra thêm lý thuyết về một cấu trúc nhân cách ba ngôi gồm cái Tôi (ego), cái Siêu Tôi (superego) và cái Ấy (id).
Id tức “cái Ấy” bao gồm những bản năng, với hai loại bản năng quan trọng nhất là dục tính (sex) và hung tính (aggression). Chức năng cơ bản của cái Ấy là duy trì con người ở trong trạng thái thoải mái, không bị những áp lực căng thẳng. Cái Ấy vận hành theo “nguyên lý khoái lạc” (pleasure principle) hướng đến sự thỏa mãn các nhu cầu có tính bản năng. Nói chung, các xung năng từ cái Ấy (id impulses) chỉ đi vào phần ý thức khi cái Tôi ở trong tình trạng yếu kém. Cái Ấy hiện diện ngay từ lúc sinh ra, là thành phần chủ yếu của tâm trí một đứa bé sơ sinh. Cái Ấy chứa đựng những năng lượng của dục tính mà Freud gọi là libido.
Cái Tôi (ego): Không giống như cái Ấy, cái Tôi không có sẵn vào lúc sinh ra, nhưng nó sẽ dần dần hình thành và phát triển khi đứa trẻ tương tác với mội trường sống. Chức năng của cái Tôi là thực hiện việc kiểm soát bản thân và hiểu biết thế giới bên ngoài. Trong giai đoạn đầu đời, đứa trẻ không thể phân biệt được các sự vật, và đó là lý do chủ yếu khiến đứa bé con đang đói bụng có thể cho vào miệng tất cả những gì mà nó có được trong tay. Đứa trẻ khi đó vẫn không có được những cảm nhận về thế giới thực tại ở bên ngoài, và rồi trẻ sẽ phải học cách phân biệt giữa thực tế khách quan và những hình ảnh bên trong tâm trí của nó. Cũng qua quá trình đó, đứa trẻ sớm nhận ra rằng việc tạo nên những hình ảnh trong tâm trí không hề giúp thỏa mãn được những nhu cầu của nó, và hệ quả là trẻ bắt đầu phân biệt được giữa bản thân nó và thế giới bên ngoài, bắt đầu học cách tìm kiếm những sự vật bên ngoài để phù hợp với những hình ảnh bên trong tâm trí của nó. Quá trình này tạo điều kiện cho cái Tôi tách biệt ra khỏi cái Ấy và được xem là quá trình đồng nhất hóa (identification). Đây là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết phân tâm.
Trong khi cái Ấy có chức năng chủ yếu là nhằm thỏa mãn các nhu cầu của bản thân mà không cần xem xét đến thực tế bên ngoài, thì cái Tôi lại phát triển vượt lên trên cái Ấy bởi vì bản thân con người cũng có nhu cầu phải giải quyết những việc xảy ra trong thực tế. Cái Tôi đảm nhận việc điều hòa giữa cái Ấy và thế giới bên ngoài. Vì thế, cái Tôi vận hành dựa trên “nguyên lý thực tế” (reality principle), nó cố gắng kềm giữ việc tiêu hao năng lượng tâm trí cho đến khi xác định được một đối tượng ở bên ngoài thích hợp để thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân. Ở trẻ em đang lớn lên, sự phát triển dần của cái Tôi sẽ làm thay đổi dần hành vi nơi đứa trẻ. Khi trẻ biết rõ vật gì ở bên ngoài có thể giúp nó thỏa mãn được cơn đói, nó sẽ ngưng dần việc bỏ tất cả mọi thứ vào miệng. Cái Tôi sau đó sẽ trở nên là thành phần chủ đạo trong nhân cách con người.
Cái Siêu Tôi (superego): Tiến trình đồng nhất hóa cũng quan trọng trong sự phát triển của  cái Siêu Tôi. Những đối tượng đầu tiên trong thế giới bên ngoài giúp thỏa mãn các nhu cầu của đứa trẻ chính là cha mẹ của nó. Ngay từ giai đoạn phát triển đầu đời, trẻ cũng nhận ra rằng ngay cả những con người quan trọng đó cũng có lúc không chấp nhận những biểu hiện từ các xung năng của nó. Cha mẹ hành xử như những người gìn giữ kỹ cương, thông qua các quá trình thưởng và phạt với nhiều mức độ khác nhau khiến đứa trẻ dần nhận ra được những hành vi nào của nó là được chấp nhận và những hành vi nào là không chấp nhận được. Khi quá trình này tiếp diễn suốt thời thơ ấu, trẻ không những nhận được các giá trị và tập quán của cha mẹ, mà nó còn thống nhập những giá trị, truyền thống và tập quán mà xã hội chấp nhận.
Cái Siêu Tôi là một dạng thức kiểm soát từ bên trong của mỗi cá nhân. Khi trẻ thực hiện một hành vi phù hợp mà không có ai khác ở tại chỗ để chứng kiến, khi ấy có sự hiện diện của cái Siêu Tôi. Theo quan điểm của Freud, cái Siêu Tôi được tạo nên bởi hai thành phần, đó là lương tâm (conscience) và cái Tôi lý tưởng (ego-ideal). Lương tâm thể hiện những điều mà một con người tin rằng mình không nên làm; còn cái Tôi lý tưởng thì thể hiện những điều mà một con người muốn thực hiện.
Các thành phần của cái Siêu Tôi vẫn thường xảy ra xung đột với các xung năng của cái Ấy. Cái Siêu Tôi là cơ chế kiểm soát được “cài đặt” bên trong để đảm nhận chức năng chính là kiểm soát các xung năng có tính nguyên sơ của cái Ấy, để từ đó con người có thể thực hiện những hành vi được xã hội chấp nhận. Sự kiểm soát này chủ yếu xảy ra trong phần vô thức của tâm trí, cá nhân mỗi người không thể nhận biết được. Cái Siêu Tôi nói chung thể hiện những điều có tính lý tưởng bên trong mỗi cá nhân và nó luôn hướng con người đến sự hoàn hảo.
Theo quan điểm của Freud, động lực của nhân cách (dynamics of personality) có trọng tâm nằm ở mối tương tác giữa ba thành phần cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi. Freud mô tả lý thuyết phân tâm như một “quan niệm động lực học, xem cuộc sống tinh thần như một giao diện giữa các lực vừa thúc đẩy nhau vừa kiểm tra lẫn nhau” (Freud, 1910). Cái Ấy vận hành theo nguyên lý khoái lạc, thường xuyên tìm kiếm việc thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, trong khi đó, năng lượng của cái Tôi và cái Siêu Tôi lại vận hành theo kiểu vừa thỏa mãn nhu cầu cá nhân, vừa duy trì sự kiểm soát các xung năng từ cái Ấy. Cái Tôi không những phải đáp ứng với thế giới bên ngoài, mà nó còn phải làm trung gian điều hòa giữa cái Ấy và cái Siêu Tôi. Một cá nhân có cái Ấy vận hành nổi trội sẽ có khung hướng gia tăng xung động; còn một người có cái Siêu Tôi vận hành nổi trội sẽ trở nên đạo đức thái quá. Chức năng của cái Tôi còn là giữ cho cá nhân được quân bình giữa hai cực đối lập đó.
Các giai đoạn phát triển tâm lý – tính dục (psychosexual development)
Freud khẳng định rằng nhân cách của một con người được hình thành cơ bản từ trong 5 năm đầu đời, khoảng thời gian mà người ấy học được những cách thức để làm giảm những áp lực căng thẳng phát sinh từ sự tăng trưởng sinh học, từ những hụt hẫng, xung đột hoặc từ các mối đe dọa (Hall & Lindzey, 1957). Ba nguồn gốc sau phần lớn cũng là sản phẩm của quá trình tăng trưởng về mặt sinh học.
Theo Freud, sự phát triển nhân cách, bao gồm những cơ chế phòng vệ khác nhau và cách thức mà con người sử dụng chúng, phần lớn phụ thuộc vào quá trình phát triển tâm lý – tính dục của người ấy. Phần lớn quá trình phát triển này xảy ra trong 5 năm đầu đời; tiếp theo sau đó là một khoảng thời gian 6 năm có diễn biến tương đối tĩnh lặng, gọi là thời kỳ tiềm ẩn. Để rồi bước sang tuổi thiếu niên, quá trình này trở nên mạnh mẽ trở lại. Freud còn đưa thêm một giả thuyết quan trọng, đó là ở mỗi giai đoạn của sự phát triển sẽ có một vùng nhất định trên cơ thể con người đóng vai trò nổi trội như một nguồn gây khoái cảm. Trong sự phát triển bình thường, mỗi người sẽ trải qua
một diễn biến có trình tự, hết giai đoạn nổi trội của một khu vực cơ thể này thì sẽ tiếp nối bằng giai đoạn nổi trội của một vùng cơ thể khác, và thứ tự này là giống nhau ở tất cả mọi người. Và một giả thuyết thứ ba của Freud cho rằng: sự thất bại trong việc hoàn tất trình tự phát triển phát triển này sẽ dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng của nhân cách.

Các giai đoạn tiền sinh dục

Giai đoạn miệng (oral stage)

Freud tin rằng khi một đứa trẻ làm động tác bú, nó không phải chỉ để nhận lấy thực phẩm, mà còn là do việc bú có thể tạo nên những cảm giác khoan khoái. Giai đoạn phát triển này kéo dài suốt một năm đầu đời, trong đó mối quan hệ mẹ-con có vai trò cực kỳ quan trọng. Khi đứa bé đồng nhất hóa với người mẹ, nó sẽ chuyển dần từ trạng thái ái kỷ (narcissism) hoặc “tự yêu mình” (self-love) sang trạng thái có thể yêu thương người khác. Freud khẳng định có một mối nguy trong giai đoạn phát triển này: Nếu mối quan hệ giữa trẻ và mẹ quá thuận lợi, trẻ sẽ trở nên lệ thuộc quá đáng với mẹ và sẽ “cắm chốt” (fixed) ở giai đoạn này, dẫn đến việc hình thành một nhân cách lệ thuộc ở tuổi trưởng thành. Ở một cực ngược lại, khi tương tác mẹ-con được trẻ trải nghiệm với nhiều nỗi lo âu, trẻ có thể cảm thấy không an toàn, và trải nghiệm bất an này có thể vẫn tiếp tục cho đến tuổi trưởng thành.
Giai đoạn hậu môn (anal stage)
Trong năm thứ hai của cuộc sống, nguồn gốc phát sinh các khoái cảm được chuyển từ vùng miệng sang khu vực hậu môn. Trong giai đoạn này, cách thức mà người lớn tập cho trẻ đi vệ sinh (tiêu, tiểu) đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu một trẻ ở giai đoạn này được xử lý vấn đề vệ sinh theo một cách thức rất ngiêm khắc, nó sẽ có thể phát triển một loại nhân cách có tính “kềm chế rất cao” (very retentive). Một người lớn có tính cách rất thô lỗ, ngoan cố hoặc keo kiệt, được xem là bị “cắm chốt” ở giai đoạn hậu môn. Trong giai đoạn hậu môn, đứa trẻ sẽ thực hiện những cố gắng đầu tiên trong việc kiểm soát bản thân và kiểm soát người khác.
Giai đoạn cơ quan sinh dục (phallic stage)
Khoảng thời gian từ 3 đến 5 hoặc 6 tuổi là giai đoạn cơ quan sinh dục. Đây là giai đoạn thường hay phát sinh các hành vi kém thích nghi cho các giai đoạn sau của đời sống. Freud tin rằng trong giai đoạn này đứa trẻ nhận được các khoái cảm chủ yếu thông qua việc tự kích thích các cơ quan này. Khi tầm quan trọng của cơ quan sinh dục càng gia tăng, một số quá trình về tâm lý sẽ xảy ra: đó là nỗi lo sợ bị thiến (castration anxiety) ở bé trai, nỗi khao khát muốn có dương vật (penis envy) ở bé gái, và đặc biệt nổi tiếng trong học thuyết của Freud đó là có sự hình thành mặc cảm Oedipe (Oedipus Complex) trong giai đoạn này.
Nổi lo sợ bị thiến nẩy sinh khi đứa bé trai sợ bị mất đi dương vật của mình. Cha mẹ, khi cố gắng ngăn chận việc trẻ hay sờ mó vào dương vật, có thể làm cho trẻ lo sợ rằng mình sẽ bị thiến bỏ vật ấy. Nỗi sợ này đặc biệt càng nhiều thêm khi đứa bé trai có dịp nhìn thấy một bé gái không có dương vật; nó có thể kết luận rằng mình cũng có thể “bị phạt” giống như bé gái kia đã bị. Tương tự, một bé gái giai đoạn này có thể bẩy sinh nỗi khát khao muốn có dương vật khi nó phát hiện ra mình không có vật này. Bé gái có thể nhận thấy “dương vật” của nó đã bị cắt bỏ do nó có thể đã làm điều gì đó sai trái. Freud khẳng định rằng, ở cả hai giới tính nam và nữ, những vấn đề nghiêm trọng trong sự phát triển nhân cách đều có thể qui về giai đoạn phát triển này.
Trong giai đoạn cơ quan sinh dục, có sự hình thành của điều mà Freud gọi tên là mặc cảm Oedipe ở các bé trai và mặc cảm Electra ở các bé gái. Nói tóm gọn thì mặc cảm Oedipe nói đến việc đứa bé trai mong muốn chiếm hữu người mẹ và loại bỏ vai trò của người bố. Mặc cảm Electra là mong muốn của đứa bé gái muốn chiếm hữu bố mình và loại bỏ vai trò của người mẹ. Do những mối quan hệ này khó có thể được hoàn tất theo cách thức như mong muốn, cho nên giải pháp cuối cùng cho các mối xung đột sẽ có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển nhân cách về sau của đứa trẻ. Trẻ về sau sẽ phải từ bỏ đối tượng (tức người bố hoặc mẹ khác giới) để đồng nhất hóa với người bố hoặc mẹ cùng giới, để sau này khi lớn lên có thể hướng sự khích lệ giới tính sang những đối tượng khác giới bên ngoài xã hội. Thái độ sau này của một con người đối với những người khác giới và đối với những người có quyền lực trong xã hội được xác định chủ yếu bởi việc người đó có thành công trong việc giải tỏa mặc cảm Oedipe trong giai đoạn này hay không. Việc giải tỏa mặc cảm Oedipe sẽ được thực hiện thông qua việc đứa trẻ đồng nhất hóa bản thân mình với người bố hoặc mẹ cùng giới tính với mình, và sau đó trẻ sẽ tái định hướng cho việc đầu tư năng lượng libido thông qua các quá trình hợp nhất và thăng hoa.
Giai đoạn tiềm ẩn (latency period)
Theo quan điểm của Freud, từ cuối năm thứ 5 hoặc năm thứ 6 trở đi cho đến trước tuổi dậy thì, đứa trẻ sẽ ở trong giai đoạn tiềm ẩn: giai đoạn mà trẻ dành phần lớn thời gian để phát triển các kỹ năng mà không còn mang sắc thái về tính dục nữa.
Giai đoạn sinh dục (genital stage)
Trong giai đoạn cơ quan sinh dục (phallic stage) tình yêu của trẻ mang nét đặc trưng của tính ái kỷ. Sang giai đoạn sinh dục, sự tự yêu mình được chuyển đổi thành yêu người khác. Bắt đầu tuổi dậy thì, trẻ bước vào giai đoạn đạt đến việc hình thành những hành vi tình dục bình thường có tính trưởng thành đối với người khác giới. Cá nhân trẻ sẽ chuyển dần từ một người có tính ái kỷ thành một con người trưởng thành có tính xã hội. Trong giai đoạn này, một cá nhân bình thường sẽ không đi tìm khoái cảm từ những khu vực trên cơ thể mình như miệng, hậu môn hoặc thông qua việc tự kích thích nữa; người đó cũng không còn chịu ảnh hưởng của nỗi lo sợ bị thiến hoặc chưa giải quyết xong mặc cảm Oedipe... Thay vào đó, những niềm vui lớn lao có thể sẽ đến từ trong mối quan hệ với những người trưởng thành khác giới sau này.
Các cơ chế phòng vệ (defense mechanisms)
Mỗi giai đoạn phát triển tâm lý – tính dục đều chứa đầy những tiềm năng phát sinh ra các hụt hẫng, xung đột và đe dọa đối với trẻ. Freud tin rằng con người sẽ giải quyết các áp lực căng thẳng này thông qua các quá trình đồng nhất hóa (identification), chuyển vị (displacement) và các cơ chế phòng vệ.
Một trong những vai trò quan trọng nhất của cái Tôi là giải quyết những sự kiện nào khuấy động sự lo âu bên trong con người. Cái Tôi có thể tiếp cận vấn đề bằng cách giải quyết vấn đề một cách thực tế, hoặc cũng có thể giải quyết vấn đề bằng cách chối bỏ (deny), huyễn tưởng hóa (fantasy) hoặc bằng những cách thức khác nhằm bóp méo thực tại. Nếu cái Tôi tiếp cận vấn đề một cách thực tế, các cấu trúc nhân cách của đương sự sẽ được củng cố mạnh thêm; ngược lại, nếu cái Tôi lựa chọn những giải pháp bóp méo thực tại, thì quá trình phát triển nhân cách sẽ bị ngăn trở. Mặc dù Freud xếp loại các quá trình đồng nhất hóa, chuyển vị và thăng hoa như là các cơ chế phòng vệ, tuy nhiên cả ba quá trình này đều là những phương thức giải quyết vấn đề có tính thực tế và về cơ bản chúng khác xa với các cơ chế phòng vệ khác (chối bỏ, huyễn tưởng hóa hoặc bóp méo thực tại). Phần lớn các cơ chế phòng vệ được vận hành bên trong vô thức. Mặc dù đôi lúc các cơ chế phòng vệ vận hành hiệu quả, giúp làm giảm bớt các nỗi lo âu, nhưng nếu sử dụng chúng càng nhiều thì nhân cách con người càng có khả năng trở nên cứng nhắc chừng ấy.
Trong giai đoạn phát triển đầu đời, những mối nguy hiểm đe dọa bản ngã thường có nguồn gốc đến từ bên ngoài. Ví dụ, đứa trẻ sợ bố mẹ, những người có quyền uy, những người cao lớn... Khi cái Siêu Tôi phát triển, mối đe dọa đối với bản ngã cũng có thể đến từ bên trong: lo âu có thể phát sinh khi một người lo sợ những xung năng từ cái Ấy có thể chiếm quyền kiểm soát bản thân. Các cơ chế phòng vệ được phát triển để giúp cá nhân có thể đương đầu với những mối đe dọa đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, và đa phần chúng xảy ra ở tầng vô thức.
Đồng nhất hóa (identification)
Đồng nhất hóa là một tiến trình xảy ra khi cái Tôi và cái Siêu Tôi phát triển. Tiến trình này còn kéo dài sang các giai đoạn về sau của cuộc sống, thông qua đó một con người khi cố gắng đạt đến một mục đích nào đó sẽ thống nhập các đặc trưng, tính cách của người khác vào trong cấu trúc nhân cách của mình. Hầu hết việc này xảy ra trong tầng vô thức và theo phương thức thử-và-sai. Nếu một hành vi nào đó được một cá nhân thực hiện mà giúp làm giảm bớt áp lực căng thẳng thì người ấy sẽ có khuynh hướng duy trì hành vi đó. Nếu hành vi mới được thực hiện không giúp làm giảm bớt áp lực căng thẳng, cá nhân người ấy sẽ không thực hiện hành vi đó nữa. Mặc dù cha mẹ là những người đầu tiên và quan trọng nhất để mỗi người trong chúng ta thực hiện việc đồng nhất hóa, nhân cách con người vẫn là kết quả của những tiến trình đồng nhất hóa từ vô số người khác được thực hiện trong suốt quá trình phát triển của một con người.
Chuyển vị (displacement)
Một đặc trưng rất độc đáo của loài người là khả năng chuyển đổi sự đầu tư năng lượng tâm trí từ một đối tượng này sang một đối tượng khác[1]. Nếu một đối tượng trước đây có tác dụng làm giảm căng thẳng, nhưng nay không còn hoặc đã bị mất đi một phần tác dụng, thì có khả năng xuất hiện một đối tượng khác để thay thế. Sự phát triển của nhân cách tùy thuộc phần lớn vào quá trình chuyển vị năng lượng và thay thế đối tượng: bởi vì đối tượng mới không thể thỏa mãn được hoàn toàn nhu cầu làm giảm áp lực căng thẳng như đối tượng ban đầu, cho nên cá nhân con người luôn tìm kiếm những phương thức mới và tốt hơn để làm gảm căng thẳng. Chuyển vị là lý do của những nỗ lực và cố gắng thường xuyên của con người và tạo khả năng có thể thay đổi những hành vi của chúng ta.
Freud tin rằng hình thức có ý nghĩa nhất của sự chuyển vị trong quá trình phát triển của nền văn minh chính là sự thăng hoa (sublimation). Thăng hoa chính là quá trình trong đó một cá nhân thay đổi cách thể hiện những xung năng có tính nguyên sơ thành ra những hành vi có thể được xã hội chấp nhận. Sự thăng hoa sẽ “tạo kênh dẫn” cho các năng lượng dục tính và hung tính đi theo các mục đích có tính chất thông thái hơn, nhân văn hơn, nghệ thuật hơn và văn hóa hơn. Vì thế, khi một con người trưởng thành, người đó có thể hoặc chuyển vị đến các đối tượng sao cho không chỉ thỏa mãn được các nhu cầu của bản thân mà còn góp phần vào lợi ích chung của xã hội.
Dồn nén (repression)
Một trong những khái niệm mà Freud đã đề xướng sớm nhất đó là sự dồn nén. Dồn nén là những cố gắng của tâm trí dùng áp lực để đưa một xung năng gây lo âu vào tầng vô thức. Cá nhân người ấy cố gắng rời xa xung năng này bằng cách từ chối thừa nhận sự hiện diện của nó. Một người đang trải qua sự dồn nén có thể không nhìn thấy được một sự vật rất dễ được nhận biết, hoặc thậm chí sự dồn nén có thể dẫn đến những tác dụng về mặt thực thể: ví dụ một người đàn ông quá lo sợ các xung năng dục tính đến mức trở nên mất chức năng quan hệ tình dục. Mặc dù sự dồn nén là cần thiết trong sự phát triển nhân cách bình thường và vẫn thường xảy ra với một chừng mực nào đó ở tất cả mọi người, nhưng một số người lại có thể trở nên lệ thuộc vào sự dồn nén vì đã sử dụng quá mức cơ chế phòng vệ này. Những người này có khuynh hướng rút lui khỏi những sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài và nói chung có một nhân cách căng thẳng và cứng nhắc. Ở họ, cái Siêu Tôi được xem là có ưu thế nổi trội hơn cái Tôi, còn cái Tôi đã mất đi một phần sức mạnh của nó đối với cái Siêu Tôi.
Để giải quyết những xung năng bị dồn nén, cá nhân con người phải tìm cách tin rằng xung năng ấy không còn tạo nên mối nguy hiểm nữa. Một người đã từng dồn nén các xung năng dục tính trong tuổi thiếu niên có thể nhận thấy cái Tôi của mình có thể đương đầu được với các xung năng này ở tuổi trưởng thành và sự dồn nén sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bản thân đương sự không hề hay biết rằng một sự dồn nén vào lúc ấy có còn cần thiết nữa hay không.
Phóng chiếu (projection)
Sự lo âu xuất phát từ nguồn gốc bên ngoài thì dễ giải quyết hơn sự lo âu gây nên từ các xung năng của cái Ấy. Vì thế, nếu một con người có thể qui kết được nỗi lo âu của mình là do một đối tượng ở thế giới bên ngoài gây ra thì người ấy có thể sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Cơ chế phòng vệ này được gọi là phóng chiếu. Trước tiên, quá trình phòng chiếu bao gồm việc xác định một tính chất đặc trưng trong con người mình và kế đó, nó qui kết tính chất đặc trưng ấy cho một người khác. Thay vì nói rằng “Tôi ghét chị tôi”, đương sự lại sử dụng cơ chế phóng chiếu để nói “Chị tôi ghét tôi”. Phóng chiếu là dạng phòng vệ rất hay gặp ở những người đang cố gắng gia tăng lòng tự tôn (self-esteem) của họ. Người ấy cố gắng làm cho bản thân mình có vẻ tốt hơn và cùng lúc ấy thì cố gắng hạ thấp người khác.
Tạo phản ứng ngược lại (reaction formation)
Khi một người có một xung năng gây lo âu, cái Tôi có thể sẽ cố gắng giải quyết xung năng ấy bằng cách tập trung vào một chiều hướng ngược lại. Khi một người cảm thấy ganh ghét một ai đó, cái Tôi có thể sẽ tìm cách giải quyết xung năng ganh ghét ấy bằng cách thể hiện ra bên ngoài thật nhiều dấu hiệu của tình yêu thương đối với người đó. Dạng phòng vệ này gọi là “tạo phản ứng ngược lại”. Các hình thức hành vi có tính cực đoan như ám ảnh sợ (phobia) chẳng hạn thường có thể được qui là do sự phòng vệ theo kiểu tạo phản ứng ngược lại.
Cắm chốt (fixation)
Theo Freud, sự phát triển nhân cách bình thường diễn ra thông qua một loạt các giai đoạn được phân chia rõ rệt của sự phát triển tâm lý – tính dục. Việc chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn sau thường bao gồm những trạng thái lo âu và hụt hẫng. Khi nỗi lo xảy ra quá lớn, sự tăng trưởng tâm lý bình thường sẽ bị đình hoãn, ít nhất là trong tạm thời, bởi vì cá nhân ấy lo ngại không dám đi tiếp sang giai đoạn sau. Người ấy khi đó đang trải qua một tình trạng gọi là “cắm chốt”. Trong những trường hợp như thế, đương sự không muốn rời bỏ khuôn mẫu hành vi quen thuộc vốn đã tạo sự thỏa mãn cho bản thân và không muốn chấp nhận những hành vi mới, những hành vi mà theo đương sự là không mang lại sự thỏa mãn cần thiết.
Thoái lùi (regression)
Tương tự như cơ chế cắm chốt, có một cơ chế phòng vệ khác được gọi tên là sự thoái lùi: Một người có thể quay trở về một giai đoạn phát triển đã vượt qua trước đó thay vì đi tiếp sang giai đoạn phát triển sau. Việc này thường xảy ra khi đương sự đang đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng. Một đứa trẻ nhỏ có thể quay trở lại thực hiện những hành vi của tuổi nhũ nhi trong hoàn cảnh nó cảm thấy bị đe dọa sẽ mất đi tình yêu thương mà người khác dành cho nó.
Một người trưởng thành có thể rút lui né tránh những quan hệ tình dục nam nữ, vì người ấy cảm thấy mình không được đầy đủ, và nhờ sự rút lui khỏi những quan hệ này mà người ấy tránh được những tình huống gây ra lo âu. Nói chung, một người thoái lùi sẽ quay trở lại vị trí của một giai đoạn phát triển mà người ấy đã từng có lần cắm chốt tại đó.
Sự xuất hiện của thoái lùi hoặc cắm chốt thì có tính tương đối về mặt mức độ. Sự cắm chốt ở một giai đoạn phát triển nào đó thì hiếm khi xảy ra hoàn toàn; tương tự sự thoái lùi về một giai đoạn trước đó cũng hiếm khi là sự thoái lùi toàn bộ.
Tóm lại, Freud tin rằng nhân cách con người phát triển như là kết quả của hai yếu tố chính: (1) Sự trưởng thành bằng cách đi suốt qua một khuôn mẫu tăng trưởng tự nhiên và (2) Việc học cách khắc phục những lo âu, căng thẳng, xung đột, hụt hẫng và các mối đe dọa bằng cách sử dụng sự đồng nhất hóa, chuyển vị và các cơ chế phòng vệ. Tất cả những quá trình này sẽ “tái tạo các kênh dẫn” cho những xung năng nguyên sơ của cái Ấy hướng đến những nguồn lực và những đối tượng dễ tiếp cận hơn và dễ được chấp nhận hơn. Sự phát triển nhân cách xảy ra theo một thể thức có trình tự, và có liên quan đến những khu vực cơ thể mà từ đó mỗi cá nhân con người cảm nhận được sự khoái lạc. Và sau cùng, mô hình nhân cách của Freud là một mô hình theo kiểu “động lực học” (dynamic), trong đó những mối tương tác thường xuyên giữa cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi sẽ xác định cách thức phát triển của nhân cách. Sức khỏe tâm trí lành mạnh là một sản phẩm của sự cân bằng giữa ba thành phần cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi.

Sự phát triển nhân cách bất thường

Các lý thuyết gia của trường phái phân tâm cổ điển xem các bất thường về nhân cách có những nguyên nhân bắt nguồn từ bên trong cá nhân con người: nghĩa là một rối loạn về hành vi có nguyên nhân từ sự xáo trộn trong trạng thái cân bằng động lực nội tại (internal dynamic equilibrium). Hai nguyên nhân có thể gây nên sự mất thăng bằng này là: (1) Tương quan động lực kém hiệu quả giữa cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi, và (2) Việc học tập diễn ra không đúng trong thời thơ ấu. Trong trường hợp thứ nhất, cái Tôi vì lý do nào đó đã để bị thất bại không đóng vai trò chủ đạo trong con người ấy. Thay vì vận hành với chức năng thống hợp, cái Tôi lại cho phép đương sự sử dụng quá mức các cơ chế phòng vệ. Sự lạm dụng quá mức này, chủ yếu bằng hình thức dồn nén, đã bắt đầu rất sớm trong thuở ấu thời. Đứa trẻ sử dụng cơ chế dồn nén để đương đầu với các xung năng gây lo âu, đẩy chúng xuống tầng vô thức, ở đó các xung năng ấy vẫn tồn tại, chỉ đến các giai đoạn phát triển về sau chúng mới lộ diện ra và gây nên những khó khăn với mức độ tăng cao. Nếu cái Tôi có khả năng giải quyết các xung năng này khi chúng lần đầu tiên xuất hiện, tiềm năng phát triển một nhân cách lành mạnh hẳn sẽ được nâng cao.
Yếu tố thứ hai tham gia vào sự hình thành của các hành vi kém thích nghi đó là khả năng học tập ở giai đoạn đầu đời (early learning). Freud tin rằng những hành vi được trẻ lĩnh hội hoặc nhằm làm giảm năng lượng tâm lý sao cho nó có thể được xã hội chấp nhận, hoặc nhằm kiểm soát được các ham muốn tạo nên khoái cảm nhưng phải đi kèm theo những sự trừng phạt nặng nề. Vì thế, phần lớn những hành vi mà trẻ học được là những sản phẩm của một tình huống “tiếp cận – né tránh”: nghĩa là có một sự thôi thúc từ bên trong hướng đến việc thực hiện hành vi, nhưng lại có những lực từ bên ngoài cấm đoán điều đó. Một trạng thái xung đột như thế có thể gây nên những vấn đề như nhiễu tâm lo âu, hành vi ám ảnh – cưỡng chế, hoặc thậm chí là tâm thần phân liệt.
Theo quan điểm của Freud, bản chất của một tình trạng nhiễu tâm (neurosis) phần lớn được xác định bởi những trải nghiệm học tập đầu đời., bởi những cơ chế phòng vệ mà đương sự sử dụng để chống lại những căng thẳng, và bởi những giai đoạn phát triển tâm lý – tính dục mà tại đó đương sự đã cắm chốt lại hoặc đã thoái lùi về. Sau khi cố gắng đối đầu với tình thế và bị thất bại, đương sự mới phải sử dụng đến phương thức thoái lùi để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Sự thoái lùi này sẽ dẫn đến những nỗi lo âu và căng thẳng đầu đời mà sau đó những trạng thái này sẽ bị dồn nén lại. Hành vi nhiễu tâm sẽ xuất hiện trong cố gắng giải quyết áp lực căng thẳng này. Hành vi ấy sẽ cần đền nhiều năng lượng tâm trí để giải quyết lo âu; vì thế đương sự sẽ ngày càng bị giảm dần năng lượng để có thể đương đầu với cuộc sống thực tế. Và như vậy, đã có sự hình thành một vòng lẩn quẩn.

Mục đích của việc trị liệu

Mục đích chính của phương pháp phân tâm là đưa những xung năng gây lo âu đang bị dồn nén từ vô thức ra tầng ý thức. Đây là những xung năng của cái Ấy mà cái Tôi đã giải quyết không thành công. Trong trị liệu, thân chủ sẽ có cơ hội đối mặt với những tình huống mà họ đã không thể giải quyết nổi. Nhà trị liệu sẽ thiết lập nên một bối cảnh an toàn, không có tính đe dọa, qua đó thân chủ có thể học cách giải bày những suy nghĩ và cảm xúc của mình mà không sợ bị người khác lên án. Với sự tự do ấy, thân chủ được phép khám phá các mặt thích đáng và không thích đáng của hành vi hiện tại và từ đó có thể xem xét việc thực hiện những hành vi mới.

Các kỹ thuật trong trị liệu

Các kỹ thuật được áp dụng trong trị liệu là liên tưởng tự do (free association), chuyển di (transference) và diễn giải (interpretation). Bài này chủ yếu trình bày cơ sở lý luận của học thuyết, nên chỉ đưa ra những tóm lược về kỹ thuật trị liệu.
Liên tưởng tự do đơn giản là việc yêu cầu thân chủ nói ra thành lời tất cả những gì hiện diện trong tâm trí họ. Mặc dù nghe có vẻ đơn giản, thực sự điều khó nhất chính là làm sao để thân chủ có thể tham gia vào làm việc này. Nói chung, việc cố gắng nói ra tất cả những gì xảy ra trong đầu là một hành vi không được xã hội khuyến khích.
Hiện tượng chuyển di thì rất phức tạp. Nó bao gồm việc thân chủ hướng các phản ứng cảm xúc của họ vào nhà trị liệu như thể nhà trị liệu là “đối tượng gốc” (original object) gây nên những cảm xúc ấy. Tiến trình này cho phép thân chủ “khơi thông” (work through) mối xung đột gốc ban đầu.
Nhà trị liệu sử dụng kỹ thuật diễn giải để giúp cho tư duy của thân chủ trở nên có lý trí hơn, và thay thế dần những chức năng của cái Siêu Tôi bằng những chức năng của cái Tôi. Vì thế, diễn giải là một kỹ thuật được thiết kế để từng bước, từng bước đưa thân chủ trở về với cuộc sống thực tế. Kỹ thuật này được áp dụng dựa trên những tư liệu được thân chủ trình bày thông qua liên tưởng tự do, phân tích giấc mơ hoặc thông qua phân tích hiện tượng chuyển di.

TÓM LẠI

Mặc dù có ảnh hưởng to lớn đối với chuyên khoa tâm thần học và chuyên ngành tham vấn, tuy nhiên, học thuyết phân tâm cổ điển vẫn cần có những phương thức diễn đạt cụ thể hơn về việc bằng cách nào mà hành vi có thể được con người lĩnh hội và bằng cách nào mà hành vi có thể được thay đổi. Học thuyết phân tâm cổ điển sẽ có tầm quan trọng lớn lao hơn trong việc ngiên cứu và thay đổi hành vi của con người nếu tất cả các quan niệm và giả thuyết của nó có thể được hợp nhất vào trong một lý thuyết khái quát chung về hành vi của con người (Ford & Urban, 1964).
Các khái niệm cơ bản của trường phái phân tâm cổ điển về phát triển nhân cách đã có ảnh hưởng lên nhiều phương pháp trị liệu khác, đặc biệt là trường phái “phân tích cái Tôi” (ego-analysis). Tuy nhiên, người học cần tham khảo thêm chi tiết ở các tài liệu chuyên khảo khác về phân tâm học, nhất là các tác phẩm của chính Sigmund Freud, cha đẻ của học thuyết này.
[1] Chuyển vị (displacement) là một cơ chế phòng vệ; không nên nhầm lẫn nó với hiện tượng “chuyển di” (transference) – Chú thích của người dịch.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét