16 tháng 10 2011

LiỆu pháp Gestalt

BS. NGUYỄN MINH TIẾN

Khi Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức vào năm 1933, một cặp vợ chồng người Đức (cả hai đều là những nhà phân tâm) đã rời quê nhà sang Hà Lan, rồi sau đó đi cư sang Nam Phi để thành lập ở đó một Viện nghiên cứu về Phân tâm học. Và đến năm 1942, họ cho xuất bản một quyển sách mà sau đó được biết với tên gọi là Liệu pháp Gestalt
 
Frederick Saloman (Fritz) Perls xuất thân là một nhà phân tâm, và đã chịu ảnh hưởng của nhiều nhà phân tâm danh tiếng cùng thời, trong đó có Theodore Ferenczi, Karen Horney, Otto Rank, Wilheim Reich và Harry Stack Sullivan. Trong buổi đầu hành nghề tại Đức, Perls đã rất say mê với những tư tưởng tiến bộ như trào lưu Bauhaus trong nghệ thuật và kiến trúc, triết lý hiện sinh, sân khấu và vũ thuật. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Tâm lý học Gestalt – một trường phái tâm lý học tại Đức vào khoảng đầu thế kỷ 20, do May Wertheimer, Wolfgang Kohler và Kurt Koffka sáng lập. Những tác giả này chủ trương đi ngược lại vói xu hướng chung của tâm lý học vào thời đó là tìm hiểu các trải nghiệm của con người bằng cách chia cắt chúng thành ra những thành phần riêng lẻ. Tâm lý học Gestalt chủ trương rằng những thành phần cấu thành các trải nghiệm của con người không thể được khảo sát một cách riêng lẻ, mà phải được xem xét đưới dạng những “tổng thể”. Họ sử dụng chữ gestalt, một từ trong tiếng Đức, với ý nghĩa là “một tổng thể hợp nhất với các tính chất không đơn thuần được tạo nên bởi tổng số các thành phần và các tương tác giữa các thành phần ấy”. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Học thuyết về Sinh thể (organismic theory) của Kurt Golstein và lý thuyết về Trường (field theory) của Kurt Levin.
Mặc dù Fritz Perls được xem như người sáng lập trường phái trị liệu Gestalt, nhưng vợ ông, Laura Perls, cũng là người đồng sáng lập và cùng ông viết tác phẩm Ego, Hunger and Aggression (Cái Tôi, Sự Khao khát và Hung tính). Lý thuyết Trường-Tiến trình (field-process) của Tâm lý học Gestalt và Chủ nghĩa nhân văn – hiện sinh của Buber và Tillich là trọng tâm trong lý thuyết của trường phái trị liệu Gestalt và điều này là do công đóng góp và ảnh hưởng của Laura Perls.
Khi nhận thấy Nam Phi bắt đầu chuyển sang chế độ độc tài và phân biệt chủng tộc, hai vợ chồng rời nước này sang Hoa Kỳ vào năm 1946, thành lập tại New York một nhóm nghiên cứu về tâm lý trị liệu dựa trên những nền tảng học thuyết mới của Perls và chịu ảnh hưởng bởi các phương pháp phân tích của Wilheim Reich, Harry Stack Sullivan và Karen Horney.
Những nhà sáng lập trường phái trị liệu Gestalt cùng với các đồ đệ của Sullivan, Horney và Reich đã chống lại khuynh hướng phân tâm học cổ điển của Freud. Vào thời đó, những nhà phân tâm được xem như những “tấm bình phong trống trơn” (blank screen); họ không thể hiện bất cứ điều gì mang tính cá nhân của mình để cho những bệnh nhân có thể thực hiện việc phóng chiếu (projection) và tạo lập tình trạng “nhiễu tâm chuyển di” (transference neurosis). Cách làm này rất khác xa với những nhà phân tâm theo các xu hướng mới tiến bộ hơn ngày nay như xu hướng “quan hệ đối tượng” hoặc “tâm lý học bản ngã” (self psychology).
Những nhà trị liệu Gestalt xem những nhà trị liệu phân tâm chiếm giữ quá nhiều quyền lực so với bệnh nhân và đã không dành sự lưu tâm đầy đủ đến những gì thực sự đang diễn ra trong mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ. Họ tin rằng trị liệu phân tâm không đủ hiệu quả trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng nơi thân chủ. Họ chủ trương thiết lập một hệ thống trị liệu hướng đến phát huy sự tăng trưởng thay vì chỉ chú ý đến việc làm giảm thiểu trạng thái tâm bệnh, họ dựa vào những trải nghiệm thật sự nhiều hơn là chỉ dựa vào sự diễn giải những thực tại không thể trải nghiệm được; và họ dựa trên những mối quan hệ tiếp xúc chắc chắn chứ không phải chỉ tái diễn lại những trải nghiệm thông qua tình trạng “nhiễu tâm chuyển di”. Phương pháp được áp dụng ở đây gọi là “nhận biết (ngộ) thông qua tiếp xúc đối thoại” (awareness through dialogic contact).
Lý thuyết của Liệu pháp Gestalt, giống như trong Lý thuyết về Trường, chủ trương xem xét Trường (field) trong một tổng thể và nhấn mạnh đến “tiến trình” (tức là quá trình phát triển hoặc các hành động diễn tiến theo thời gian) hơn là chỉ quan tâm đến những trạng thái tĩnh tại.
Giống như một liệu pháp có khuynh hướng “hiện sinh” (experiential), liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến sự hiện hữu đúng như những gì con người có thể trải nghiệm được và không đặt nặng vào những cách thức lý giải trừu tượng. Nhà trị liệu Gestalt tin vào khả năng của con người trong việc tăng trưởng, tự điều chỉnh và tự bình phục thông qua việc tiếp xúc giữa người với người và khả năng nội thị (insight). Mặc dù có những giới hạn về mặt sinh học - di truyền, bản ngã của con người vẫn được xem như một tiến trình có thể phát triển thông qua các tương tác xã hội chứ không phải do sự xung đột giữa những tác động dồn nén về mặt xã hội và những bản năng sinh học. Mối quan hệ trị liệu trong liệu pháp Gestalt là một sự tiếp xúc hay gắn kết rất chủ động và thực thụ giữa con người của nhà trị liệu và con người của thân chủ dựa trên khuôn mẫu đối thoại có tính hiện sinh, chứ không nhằm giữ một khoảng cách xa “trung tính” để thúc đẩy sự hình thành một nhiễu tâm chuyển di như trong liệu pháp phân tâm.
Và giống như một liệu pháp dựa trên cơ sở hiện tượng học (phenomenological therapy), liệu pháp Gestalt thay thế phương pháp liên tưởng tự do trong phân tâm học bằng phương pháp luận về một sự “tỉnh ngộ có trọng điểm” (focused awareness). Cách tiếp cận trên cơ sở hiện tượng học xem tất cả những gì có được từ sự trải nghiệm tức thời là những dữ liệu có tính chắc chắn, chứ không phải những dữ liệu rút ra từ quá khứ hoặc suy diễn theo lý thuyết. Phương pháp hiện tượng học cố gắng “làm sạch” sự nhận biết của cả nhà trị liệu lẫn thân chủ, theo cách thức giống như lau sạch bụi mờ trên một tấm gương. Việc hướng dẫn con người sử dụng các cảm nhận của chính mình để đạt đến khả năng nội thị khiến cho quan điểm hiện sinh về tiềm năng và trách nhiệm cá nhân trở thành hiện thực.
Vói cách thức đó, con người có thể có được những công cụ để hiểu biết về chính họ cũng như về người khác. Họ học được cách nhận diện và chấp nhận những nhu cầu, sở thích, ham muốn, động cơ và các giá trị của chính mình. Ngoài ra, bằng cách học được cách nhận biết các tiến trình nhận biết của chính mình, các thân chủ cũng sẽ học được cách điều hòa chính bản thân mình theo cách thức ít bóp méo ý thức của họ hơn.
Liệu pháp Gestalt là một phương pháp dựa trên hiện tượng học thực nghiệm. Thân chủ được hướng dẫn và khuyến khích thực hiện những hành vi mới với mục đích đạt đến sự hiểu biết bản thân tốt hơn. Bằng cách đề xuất những hành vi mới như những thực nghiệm hiện tượng học, nhà trị liệu có thể hướng dẫn thân chủ thay đổi hành vi thông qua sự nhận biết bản thân một cách tự nhiên chứ không thông qua những chương trình chỉnh sửa hành vi như trong liệu pháp hành vi.
LÝ THUYẾT VỀ NHÂN CÁCH
Trường Sinh thể - Môi trường (organism-environment field)
Trường phái Gestalt xem xét con người và môi trường sống trong một tổng thể không tách biệt, dựa trên sự tương tác giữa con người và môi trường sống (organism-environment field). Một con người không thể được xem xét tách rời khỏi Trường mà người này sinh sống, đặc biệt là không thể xem xét người ấy tách rời khỏi các tương tác giữa người với người trong Trưòng ấy; và ngược lại cũng không thể xem xét môi trường sống mà không thông qua nhãn quan của một con người. Thậm chí nhu cầu cần được cô độc của một con người cũng có thể được định nghĩa trong mối quan hệ với những người khác.
Trường được giới hạn bởi những đường biên giới. Đường biên giới tiếp xúc (contact boundary) có một chức năng kép: vừa giúp một con người có thể kết nối được với người khác, vừa giữ được sự tách biệt, độc lập của người ấy. Sự tách biệt tạo nên và bảo tồn tính độc lập của một con người, đồng thời bảo vệ người ấy tránh xa các tác nhân gây hại. Nhưng chỉ khi đường biên giới ấy cho phép sự trao đổi tích cực xảy ra bên trong Trường thì mới có thể làm nên đời sống và sự tăng trưởng. Con người tăng trưởng khi họ tiếp xúc với những gì ban đầu là xa lạ, đặc biệt khi họ tiếp xúc và nhận biết về những người khác xung quanh. Các nhu cầu được giải quyết thông qua sự tiếp xúc.
Con người hình thành nên sự cảm nhận về cái “Tôi” của mình bằng những quá trình tiếp xúc theo kiểu “tôi-với-anh” (I-though) hoặc “tôi-và-nó” (I-it), chứ một người không thể nhận biết cái “Tôi” của mình bằng cách xem xét một cái “Tôi” biệt lập. Bằng cách phân biệt giữa “ngã” (self) và “phi ngã” (not-self), thông qua sự vận hành các tiến trình “làm cho giống” (identification) và “làm cho khác” (alienation), con người luôn luôn định hướng cho khoảng không gian sống của mình và kiến tạo nên “một cảm nhận về con-người-mà-mình-đang-là” (a sense of who they are).
“Tất cả những sự tiếp xúc đều là sự điều chỉnh đầy tính sáng tạo của sinh thể và môi trường sống” (F. Perls, 1952) (All contact is creative adjustment of the organism and environment). Tất cả các sinh thể đều sống trong môi trường của mình và đều phải điều chỉnh tùy theo hoàn cảnh của Trường. Nhưng chỉ điều chỉnh thôi thì chưa đủ. Con người cũng cần phải “định dạng” lại môi trường sao cho nó có thể đáp ứng được các nhu cầu và giá trị của mình. Đây chính là khía cạnh “sáng tạo” đã được nêu ở trên.
Sự tiếp xúc có thể xảy ra mà con người có thể nhận biết được với nhiều mức độ khác nhau. Hầu hết các tương giao đều được thực hiện ở một mức độ rất quen thuộc khiến con người rất ít khi nhận biết được rằng tương giao ấy đang xảy ra. Chỉ khi tình huống sống có tính phức tạp, mới mẻ, khi có xung đột, hoặc khi các mô hình vận hành theo thói quen không có tác dụng thì mới cần đến việc người ấy phải nhận biết được hoạt động tiếp xúc của mình. Trong trường hợp người lành mạnh, khả năng nhận biết này có thể phát triển theo yêu cầu của tình huống sống.
“Sự tiếp xúc (contact) chỉ có thể xảy ra khi ít nhiều có được sự hỗ trợ (support) cho nó xảy ra... Sự hỗ trợ là bất cứ điều gì có tác dụng thúc đẩy sự đồng hóa (assimilation) và thống hợp (integration) các trải nghiệm trong một con người, trong một mối quan hệ hoặc trong một xã hội...” (Perls, 1992). Sự hỗ trợ có thể có được từ thể chất của chúng ta, từ ngôn ngữ, tập tục, khả năng học hỏi, trí tuệ, cũng như từ lòng trắc ẩn của chúng ta. Sự đồng nhất hóa của một con người với những trải nghiệm của chính mình có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của khả năng “tự hỗ trợ” (self-support) và là khía cạnh trung tâm trong học thuyết về sự thay đổi của liệu pháp Gestalt.
Một sự hỗ trợ đầy đủ là chức năng của toàn bộ Trường (field) và chức năng đó đòi hỏi phải có cả sự tự hỗ trợ của bản thân đương sự lẫn sự hỗ trợ từ môi trường. Khi một người cần có một môi trường an toàn để có thể nói ra được những cảm xúc đau khổ, người ấy ắt phải nhận ra được nhu cầu của mình, rồi sẽ tìm kiếm một hoàn cảnh có tính an toàn để nhu cầu ấy có thể được giải bày với người khác và cho phép những sự tương tác trở nên có hiệu quả.
Một sự tiếp xúc tốt phải là sự lưu tâm đến những hoàn cảnh thực tại đang xảy ra. Sự định hướng cũng như hành động xảy ra ngay trong những tình huống thực tế ở hiện tại và chỉ có thể có được sự hỗ trợ ở “tại đây và ngay lúc này” (here and now). Khi một người nói về một chuyện xảy ra trong quá khứ thì sự nhớ lại và những cảm xúc có được về chuyện ấy vẫn là những điều xảy ra trong hiện tại. Tương tự, khi nói về tương lai, những cảm xúc và dự đoán của chúng ta cũng diễn ra ngay trong hiện tại (Perls, 1992).
Khi một người liên hệ đến quá khứ (những niềm tin đã được nhập tâm từ xa xưa hoặc các sự việc chưa được hoàn tất) hoặc liên hệ đến tương lai (bi thảm hóa) mà không nhận ra mình đang như thế, khả năng nhận biết và chức năng sống của người ấy có thể bị phương hại. Ví dụ, khả năng tiếp xúc của một con người có thể bị phương hại khi anh ta nhầm lẫn một người nào đó trong hiện tại với hình ảnh của một người khác mà anh ta biết trong quá khứ. Một khả năng tự hỗ trợ đã từng thành công trong việc hỗ trợ cho sự tăng trưởng trước đây thì nay có thể trở nên có tác dụng hỗ trợ về mặt cấu trúc cho sự trì trệ.
Gestalt
Gestalt là một từ tiếng Đức có nghĩa là khuôn mẫu (pattern) hoặc hình thể, cấu trúc (configuration). Một gestalt được tạo nên bởi mối tương quan giữa Ảnh (figure) và Nền (ground). Mỗi Ảnh tượng trưng cho một trải nghiệm, nó được điều tiết tùy theo nhu cầu của đương sự đồng thời tùy theo nhu cầu và bản chất của tình huống mà người đó đang sống. Nền là toàn bộ bối cảnh bao gồm những yếu tố tương thích về mặt hiện tượng học mà từ đó xuất hiện nên Ảnh. Một cách lý tưởng thì Ảnh vẫn sẽ hiện rõ nét chừng nào mà sự quan tâm về nó vẫn còn trội bật, và chỉ mờ dần đi sau đó khi sự quan tâm chuyển sang một Ảnh khác kế tiếp.
“Sự ý thức một cách tự nhiên về nhu cầu nào đang nổi trội và tổ chức được các chức năng của sự tiếp xúc chính là hình thức thể hiện về mặt tâm lý của khả năng tự-điều-hòa-của-sinh-thể (organismic-self-regulation)” (Perls và cs., 1951). Việc tạo lập một gestalt là một tiến trình liên tục trong đó điều được quan tâm đến nhiều nhất sẽ được nhận biết để có thể xử lý công khai, năng lượng tâm trí được đầu tư để làm rõ Ảnh (figure) và thực hiện những hành động để làm thỏa mãn những nhu cầu được tượng trưng bởi hình ảnh đó. Khi sự đầu tư này thành công (thỏa mãn được nhu cầu của đương sự vào lúc ấy), sự chú ý của đương sự vào Ảnh sẽ giảm đi và năng lượng tâm trí được sử dụng để đầu tư cho một ảnh khác. Khi sự đầu tư không thành công, gestalt vẫn còn trong trạng thái không hoàn tất và vẫn đòi hỏi sự chú tâm của đương sự.
Ví dụ, một đứa trẻ tìm kiếm sự yêu thương nhưng không có được sự yêu thương thì sẽ trở nên hổ thẹn, oán hận hoặc cứ luôn khao khát chờ đợi. Gestalt chưa hoàn tất này có thể vẫn luôn vận hành ở nhiều tầng mức trong ý thức của đương sự. Khi không được bản thân nhận biết rõ, gestalt này vẫn trong trạng thái chưa hoàn tất và có thể ảnh hưởng đến lòng tự tôn, lên bản sắc cá nhân và lên các mối quan hệ liên cá nhân của đương sự trong nhiều năm. Nếu chức năng của đường biên giới là có tính uyển chuyển và không có sự nhiễu loạn, thì cá nhân đó vẫn có sự trao đổi và tăng trưởng. Nếu các đường biên giới quá cứng nhắc, một con người cũng sẽ trở nên cứng nhắc và kém linh hoạt, ví dụ như trường hợp những người có rối loạn nhân cách ám ảnh – cưỡng chế. Khi chức năng ở các đường biên giới có sự “dò rỉ”, đương sự sẽ mất đi sự rõ ràng về mặt bản sắc, rất hay giao động và cứ luôn phải điều chỉnh bản thân mình theo người khác.
Ý nghĩa của một gestalt nằm trong mối liên hệ giữa trải nghiệm (ảnh) và bối cảnh (nền). Ý nghĩa luôn luôn có liên quan đến bối cảnh, cả về mặt thòi gian, không gian, văn hóa va con người. Nếu không hiểu biết về bối cảnh (Nền) thì một trải nghiệm (Ảnh) sẽ không có ý nghĩa gì cả. Nếu không có sự trải nghiệm, cái bối cảnh kia cũng trở nên không được nhận biết rõ ràng và cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.
Trong thực hành trị liệu, sự nhận biết rõ một gestalt được gọi là khả năng “nội thị” (insight). “Nội thị là sự định khuôn cho trường nhận thức (perceptual field) theo một cách thức sao cho thực tại được hiển thị một cách rõ rệt; chính trong sự tạo lập một gestalt mà các yếu tố tương thích với cái toàn thể” (Heidbreder, 1993). Khái niệm nội thị trong liệu pháp gestalt chính là sự nhận biết rõ về cấu trúc của Trường Cá nhân – Môi trường bao gồm sự tiếp xúc với cái ngã trong toàn bộ Trường cuộc sống của một con người. Vào thời điểm một người cần đến khả năng nhận biết có tính nội thị (insightful awareness) mà khả năng ấy không phát triển được thì chính đó là lúc có chỉ định tiến hành tâm lý trị liệu.
Sự đồng hóa và tạo lập cái Ngã
(Assimilation and Self Formation)
Từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, thông qua sự điều chỉnh một cách sáng tạo, con người đã phát triển nên một cảm nhận về cái Ngã (sense of self) nơi bản thân mình. Ngay từ khi vừa mới chào đời, cấu trúc sinh học của sinh thể đã bắt đầu tương tác với những điều xa lạ từ môi trường xung quanh, và dần dần tạo lập nên bản ngã – một thực thể sinh học-xã hội-tâm lý-tinh thần. Con người thống hợp tất cả các trải nghiệm trong cuộc sống, liên tục tương tác với Trường Sinh thể - Môi trường trong hiện tại, liên tục điều chỉnh bản thân cho phù hợp với môi trường và điều chỉnh môi trường cho phù hợp với bản thân. Mỗi người vào một thời điểm khi tương tác với một sự vật trong môi trường cũng đều có được một cảm nhận về cái Ngã của mình. Sự tương tác với một cái mới sẽ tạo nên một cảm nhận mới về cái Ngã.
Quá trình “chuyển hóa về mặt tâm thần” (Mental metabolism) là một thuật ngữ có tính ẩn dụ được sử dụng trong liệu pháp Gestalt để mô tả các tiến trình hoạt động của những đường biên giới qua đó con người vừa duy trì được bản thân mình vừa có thể tăng trưởng. Con người trở nên nhận biết được các nhu cầu của mình, hướng về môi trường để hiểu biết chắc chắn những nguồn lực nào có thể giúp thỏa mãn những nhu cầu ấy, rồi chọn lựa để thu nhập vào và biến cái xa lạ kia trở thành một thành phần của cái Ngã. Đồng hóa (Assimilation) là tiến trình thống hợp những cái mới lạ từ bên ngoài và biến nó trở thành một phần trong cái Ngã của một con người. Tiêu hóa thức ăn cũng là một sự đồng hóa dưới hình thức sinh học. Những gì bên ngoài được xem là không cần thiết hoặc có thể gây nguy hại thì sẽ bị từ chối; chỉ những gì “có giá trị nuôi dưỡng” và được mong đợi mới có thể được dung nạp vào.
Cái được đồng hóa sẽ trở thành một phần của cái Ngã; cái được du nhập vào mà không thông qua tiến trình đồng hóa thì vẫn sẽ còn là một “dị vật” và quá trình này được gọi là nhập tâm, hoặc nội phóng chiếu (introjection). Việc tự động không chấp nhận quan điểm của người khác thường xảy ra thông qua đối thoại hoặc đồng hóa. Việc tự động chấp nhận quan điểm của người khác mà không thông qua sự phân tích thường chỉ là sự “nhập tâm” nêu trên. Các ý tưởng du nhập vào bên trong tâm trí mà không thông qua sự xem xét (học tập, phân tích, suy nghĩ...) được gọi là những “sự vật hoặc đối tượng được nhập nội” (introjects). Các lời răn “Nên” hoặc “Không Nên” là những giáo điều không thông qua sự đồng hóa, được tiếp nhận từ khi còn nhỏ, và ăn sâu vào phần bản ngã của một con người. Những introject ấy sẽ làm hạn chế khả năng của con người trong việc cảm nhận rõ rệt về cái Ngã, cản trở sự rộng mở để tiếp nhận những trải nghiệm mới, loại bỏ khả năng sống hòa hợp và sống động của một con người, làm cho người đó không sống hết khả năng của mình.
Những người có nhân cách lành mạnh có khả năng nhận biết rõ bản ngã, ít xảy ra những xung đột trong nội tâm, có khả năng tự thân cảm nhận những tính chất, cảm xúc và nhu cầu của bản thân. Cấu trúc nhân cách cùng với cảm nhận về bản ngã tất cả đều được tạo lập nên thông qua mối quan hệ tương tác giữa con người với môi trường sống. Trẻ em khi được đối xử với sự thương yêu và tôn trọng sẽ phát triển nên một cảm nhận về lòng tự tôn (sense of self-esteem). Trẻ em có thể trở nên những con người có khả năng và hữu ích nếu khi còn nhỏ trẻ được khuyến khích làm những hành vi thử nghiệm, ứng phó, được phép sai lầm, được tạo cơ hội để có những lúc phải thất vọng và hụt hẫng, được học cách tương tác với thế giới xung quanh và được hướng dẫn cách xử lý các tình huống bất trắc bằng những cách thức phù hợp với khả năng và mức độ phát triển của trẻ.
Trong quá trình sống, có nhiều lúc con người rơi vào thế bế tắc (impasse). Đó là những lúc không có được sự hỗ trợ từ bên ngoài, và đương sự không biết được liệu mình có thể tự lực để tồn tại được hay không nếu không có ai khác giúp đỡ. Lúc đó, đương sự có thể có một cảm nhận về tình huống vừa như một mối nguy, vừa như một cơ hội. Việc có ai đó đến cứu giúp sẽ khiến đương sự không nhận ra được là mình yếu kém về khả năng tự lực (tự hỗ trợ: self-support). Nếu không có sự cứu giúp từ người khác, tình thế bế tắc khi ấy có thể trở thành một cơ hội để đương sự thực hiện một điều mới mẻ và quan sát được điều gì sẽ xảy ra. Đây là một thực nghiệm và bằng cách thực nghiệm mà con người mới có thể học tập và tăng trưởng được.
BỆNH LÝ VÀ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG
Con người học tập được từ sự trải nghiệm. Rối loạn chức năng xảy ra khi khả năng nhận biết không phát triển theo yêu cầu và những kiểu mẫu hành vi thì lại hạn chế khả năng tăng trưởng, không cho phép cá nhân cảm thấy hài lòng, hoặc lập đi lập lại tình trạng gây hủy hoại về mặt xã hội. Cơ chế nhận biết nguyên thủy không phát triển sẽ gây gián đoạn cho việc tạo lập sự lưu tâm đến một Ảnh (figure) khiến cho nó không trở thành chủ đề được ý thức nhận biết. Tiến trình gián đoạn khả năng nhận biết tự nó cũng có thể được định vị trở thành một Ảnh và thông qua sự “nhận biết về khả năng nhận biết” mà tiến trình học tập có thể được bảo tồn. Khi tiến trình nhận biết không được bảo tồn, việc học tập sẽ không xảy ra và các hành vi lành mạnh không được hình thành; khi ấy việc trị liệu sẽ được chỉ định.
Các hành vi bị gián đoạn thường bắt đầu có từ tuổi thơ bé, khi mà đứa trẻ không được hỗ trợ đầy đủ hoặc khi mà đứa trẻ được bảo bọc quá mức, không có điều kiện để trải nghiệm và học tập được từ những hệ quả tự nhiên của những hành vi của chính mình.
Sự gián đoạn xảy ra cả trên bình diện tâm trí lẫn bình diện cơ thể. Ví dụ khi một người trở nên sợ hãi hoặc ngượng ngùng, người ấy sẽ tìm cách ngăn trở khả năng nhận biết những cảm xúc này bằng cách mỉa mai, châm biếm. Anh ta nghĩ rằng mình “đang đùa cợt”. Trên bình diện cơ thể, khả năng nhận biết cũng bị né tránh bằng cách làm gián đoạn những tiến trình hỗ trợ cho sự linh hoạt về mặt cảm xúc. Ví dụ, một người khi cố gắng ngăn trở sự nhận biết về cảm xúc buồn bã hoặc muốn kiềm giữ cho không khóc có thể sẽ cắn chặt hàm răng hoặc nhắm nghiền mắt lại. Cơ chế của những hành vi né tránh ấy lại có thể làm phát sinh thêm các khó khăn mới, ví dụ nó sẽ gây nên chứng đau đầu do căng thẳng (tension headaches).
Khi trong Trường hiện tại xảy ra sự gián đoạn khả năng nhận biết thì sự gián đoạn này thường có liên quan đến các “đối tượng được nội tâm hóa” (introjects), những ký ức và những “vụ việc chưa hoàn tất” (unfinished business) tức là những cảm xúc chưa được giải quyết hoặc những nhu cầu chưa được thỏa mãn. Điều này cũng giải thích được phần lớn những hiện tượng chuyển di (transference). Ví dụ một nữ thân chủ có thể nhận thấy nhà trị liệu của cô là một người nhiệt tình và rộng lượng, nhưng cô có thể không tin ông ta bởi vì trước đây người cha nghiện rượu của cô cũng thể hiện vẻ nhiệt tình và rộng lượng giống như vậy nhưng rồi có thể đột ngột công kích cô một cách vô cớ.
Rối loạn các đường biên giới
Khi chu trình tạo lập một Ảnh bị gián đoạn hoặc bị bóp méo, khi đó sẽ có sự rối loạn trong khả năng nhận biết và rối loạn tại đường biên giới tiếp xúc giữa người ấy với phần còn lại của Trường. Một số người có thể làm gián đoạn chu trình tạo lập một Ảnh bằng cách nhanh chóng chuyển sang chú tâm đến một Ảnh mới trước khi Ảnh cũ được đầu tư một cách đầy đủ. Ví dụ một cô gái nọ rất sôi nổi và thích gợi chuyện, gần như có mặt khắp nơi trong một gian phòng nhưng lại không ở lại với ai đủ lâu để có thể có được một cảm nhận đầy đủ về bản ngã của cô cũng như để có thể có được một sự kết nối với người khác. Cô gái ấy là ví dụ minh họa cho một trường hợp thay đổi quá nhanh trong sự đầu tư vào các Ảnh (figure). Trong một ví dụ khác, một thanh niên lại thể hiện tính chất đầu tư quá lâu vào một Ảnh: anh ta thường kéo dài giai đoạn làm rõ một Ảnh khiến cho Ảnh vẫn tiếp tục được làm rõ đến từng chi tiết mà chẳng bao giờ chuyển sang một hành động nào cả. Mọi người đều nhận thấy anh ta như một người có tính ám ảnh, quá nguyên tắc và dễ bị lạc lối trong các tiểu tiết.
Tiếp xúc, Hòa lẫn và Tách biệt (Contact, Confluence and Isolation)
Một sự tiếp xúc với Trường được xem là tốt nếu như các đường biên giới có đủ tính chất kép đã được bàn đến ở phần trên: vừa kết nối và vừa tách biệt. Khi một người bị mất đi cái cảm nhận về sự kết nối với thế giới xung quanh, người đó đang sống cô lập. Một người cô lập không có những tương tác tốt với xung quanh và cũng không tương tác tốt với chính họ. Trái lại, nếu mất đi cảm nhận về sự tách biệt thì người đó đang hòa lẫn mình với người khác, phụ thuộc vào người khác.
Nhập tâm và phóng chiếu (introjection and projection)
Mặc dù quá trình nhập tâm (introjecting) là có tính lành mạnh trong việc học tập những tình huống mới và nó rất cần thiết trong thời thơ ấu, nhưng những đối tượng được nhập tâm (introjects) nào còn nằm ngoài tầm nhận biết thì lại là thành phần cốt yếu của cơ chế hình thành bệnh lý. Ví dụ, nếu một đứa trẻ nhập tâm ý tưởng rằng ‘‘Nếu không thể nói được điều gì hay ho thì tốt nhất là nên im lặng’’ thì điều này sẽ có ảnh hưởng đến tính quyết đoán của trẻ sau này khi cuộc sống cần đến khả năng ấy.
Phóng chiếu hay ngoại hiện thì trái ngược với nhập nội. Trong khi nhập tâm là quy những gì của người khác vào trong cái ngã; thì phóng chiếu là tiến trình quy những gì của mình cho người khác. Phóng chiếu ngăn trở một con người trải nghiệm được những nét tính cách của cái ngã bằng cách quy nó cho người khác. Có nhiều người đôi lúc tự ngăn trở việc nhận biết những cảm xúc ganh ghét của bản thân mình bằng cách suy nghĩ (phóng chiếu) rằng những người khác đã thể hiện thái độ thù địch với mình. Sự phóng chiếu có thể thay đổi theo nhiều mức độ khác nhau về tính chính xác, tuy nhiên nó luôn có chức năng làm trở ngại cho sự nhận biết bản thân.
Hồi hướng và Chuyển hướng (Retroflection and Deflection)
Hiện tượng hồi hướng và chuyển hướng có thể xảy ra về sau trong chu trình nhận biết. Nếu trong quá trình nhập tâm và phóng chiếu, sự nhận biết bị gián đoạn trước khi đương sự trải nghiệm được những cảm xúc và các xung năng như là của chính mình, thì trong hồi hướng và chuyển hướng, đương sự vẫn chấp nhận các xung năng là của chính mình nhưng thay đổi chiều hướng hoặc mức độ tác động của nó. Việc này có thể cho phép đương sự chấp nhận những ước muốn của chính mình và có thể điều chỉnh lại những đáp ứng sao cho thỏa mãn những nhu cầu của hoàn cảnh sống.
Trong quá trình hồi hướng, các xung năng và ước muốn được chuyển từ bình diện liên cá nhân (interpersonal) sang bình diện nội tâm (intrapsychic); nghĩa là một điều mà đương sự muốn mình làm cho người khác hoặc muốn người khác làm cho mình sẽ được chuyển hướng thành điều mà đương sự tự làm cho chính mình. Ví dụ trường hợp một người đang giận dữ vẫn cố kiềm giữ tình huống ở mức an toàn để không có những hành động bột phát, hoặc trường hợp một người muốn có những cảm giác dễ chịu sẽ làm những động tác tự kích thích bản thân.
Chuyển hướng là quá trình làm giảm đi tác động của sự tương tác hoặc theo hướng từ người khác đến bản thân hoặc theo hướng từ bản thân đến người khác. Mỉm cười để giảm nhẹ một thái độ chỉ trích hoặc giận dữ là một ví dụ. Phớt lờ hoặc xem nhẹ một sự giao tiếp là cách chuyển hướng đối với một tình huống giao tiếp đang xuất hiện. Chuyển hướng có thể là một khả năng quan trọng giúp bảo vệ cho cái ngã cũng như cho tình huống sống. Những người không chuyển hướng cho những thái độ gây hấn ra bên ngoài (outgoing aggression) có thể làm cuộc sống của những người khác thêm khó khăn; trong khi những người không chuyển hướng cho những thái độ gây hấn hướng vào bên trong (incoming aggression) có thể trở thành những người dễ bị tự ái.
Tiếp cận trị liệu các chứng lo âu theo kiểu gestalt
Với cơ sở triết lý được định hướng theo các tiến trình của trường phái Gestalt, chứng lo âu được tiếp cận dựa trên tiến trình hơn là dựa trên bối cảnh của lo âu. Lo âu được xem là trải nghiệm về một sự phấn khích bị gián đoạn hoặc không được hỗ trợ (khi cuộc sống phải bị đè nén chứ không được nâng đỡ). Khi lo âu, một người sẽ mất đi cảm giác ‘‘tập trung vào hiện tại’’ và sẽ có khuynh hướng ‘‘tương lai hóa’’ (futurizing) các sự việc, từ đó tạo nên những tiên đoán có tính tiêu cực, diễn giải sai lầm và hình thành những niềm tin phi lý. Khi lo âu, người ấy tập trung vào một cái gì đó không có ngay trong hiện tại, vì thế anh ta sẽ không thể tập trung năng lượng đầy đủ để hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động và hoàn tất được một gestalt (ảnh không liên quan đến nền, trải nghiệm không liên quan đến bối cảnh).
Sự bế tắc (impasse)
Khi những sự hỗ trợ thông thường bị mất đi mà những sự hỗ trợ mới chưa được khỏi động, người ta sẽ không biết mình liệu có đủ sự hỗ trợ cần thiết để có thể tiếp tục tồn tại hay không. Sự bế tắc xảy ra khi hình ảnh về bản thân (self-image) trở nên cứng nhắc, sai lầm và không còn vai trò trong việc tạo dựng một cuộc sống an toàn nữa. Khi một người không còn giữ được hình ảnh bản thân mình như trước đây lúc đó anh ta sẽ cảm thấy bế tắc.
Người bị bế tắc sẽ bị mắc mứu vào những tình thế mà anh ta xem là đáng sợ, không có khả năng quay lui và lo sợ mình sẽ không thể sống nổi nếu tiếp tục đi tới. Họ bị tê liệt, với những năng lượng tâm trí bị phân chia, dằn xé và chống đối nhau, giống như một tài xế giữ một chân đạp ga chân kia đạp thắng vậy! Tình trạng này thường được mô tả bằng những hình ảnh ẩn dụ như ‘‘trống vắng’’, ‘‘đen tối’’, ‘‘đứng bên bờ vực’’, ‘‘lọt vào xoáy nước’’ hoặc ‘‘bị nhấn chìm’’.
Người đang trải qua sự bế tắc sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ để có thể tồn tại. Sự tồn tại đích thực là sự tồn tại với sự nhận thức chính xác, có khả năng đặt cái ngã thực sự của mình vào trong thế gian vào nhìn thấy người khác một cách đúng đắn. Nó được thể hiện thông qua sự sống động, những gestalt hoàn tất, hiểu biết và làm rõ những điều gì là quan trọng. Khi sự hỗ trợ không đầy đủ, khả năng hoàn tất những việc này sẽ thất bại.
Định đề nghịch lý về sự thay đổi
Có một nghịch lý là khi một người càng cố gắng để trở nên cái mà anh ta không thực sự là thì anh ta càng giữ nguyên trạng như cũ không thay đổi. Sự tăng trưởng thực sự không xảy ra khi một người ghét bỏ hoặc từ chối cái ngã của chính mình, mà nó chỉ xảy ra khi người đó nhận biết rõ cái thực tại mà họ đang là. Càng nhận biết rõ bản thân, nhận biết rõ hoàn cảnh và tính cách của mình thì một người mới có thể đi trên con đường tăng trưởng. Khi sống với toàn bộ bản ngã thật của mình, một người mới có thể thực hiện được những hành vi mới và học tập được từ những tiến trình.
Con người thường hạn chế khả năng tăng trưởng của mình bằng cách đồng hóa mình với những cái ngã ‘‘giả’’ (hoặc quá tự cao hoặc quá xấu hổ về hình ảnh bản thân). Cố gắng giữ lấy hình ảnh cái ngã giả tạo này sẽ ngăn trở người ấy tăng trưởng và không ở trong ‘‘cái toàn thể’’. Sự nhận biết cách thức tồn tại của chính mình sẽ bao gồm cả việc thấy được bản thân mình là một con người đáng được yêu thương và trân trọng ngay cả khi vẫn còn nhiều thiếu sót và vẫn phải học hỏi thêm nhiều điều. Những người biết tôn trọng bản thân có thể nhận ra được những hành vi nào là không hiệu quả hoặc gây tổn thương cho người khác mà vẫn không mất đi cái cảm nhận về giá trị của bản thân mình.
Trái lại, cảm xúc đi kèm theo sự cảm nhận rằng mình ‘‘không đạt’’ hoặc ‘‘không được’’ chính là sự hổ thẹn. Trước khi giúp một người có khuynh hướng hổ thẹn nhận biết được một cách đầy đủ về bản thân, điều cần thiết là phải thực hiện một số công việc đặc biệt để tác động vào tiến trình hổ thẹn của họ (Yontef, 1993).
THỰC HÀNH
Cấu trúc cơ bản của liệu pháp
Liệu pháp Gestalt có một khung lý thuyết có tính tổng hợp, được thiết kế để có thể dung nạp những ý tưởng, quan sát và kỹ thuật từ nhiều nguồn khác nhau và hợp thành một phương pháp với đặc điểm có cùng một triết lý chung nhưng đa dạng về mặt kỹ thuật. Nhà trị liệu Gestalt được yêu cầu phải hiểu biết về thân chủ và mối quan hệ, nắm vững phương pháp, có thể sáng tạo hoặc vay mượn bất cứ kỹ thuật trị liệu nào có thể giúp họ cảm nhận được những gì cần được khám phá và cho phép thân chủ tiếp tục đi tới trên con đường tăng trưởng.
Từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970, một số các kỹ thuật kịch theo kiểu Gestalt đã được công bố rộng rãi. Và trong thập niên cuối thế kỷ 20, liệu pháp Gestalt tiếp tục là loại liệu pháp ‘‘đa kỹ thuật’’ (multi-technical), sử dụng những ý tưởng, dữ liệu và các kỹ thuật can thiệp từ nhiều nguồn khác nhau. Gần đây hơn, việc thực hành liệu pháp Gestalt chuyển hướng sang các kỹ thuật liên quan nhiều hơn đến những trải nghiệm của thân chủ, ví dụ kỹ thuật phản ánh có tính thấu cảm (empathetic reflection) và chú trọng hơn đến việc tăng cường mối quan hệ trị liệu. Việc này làm cho diện mạo của liệu pháp Gestalt khác biệt đáng kể so với tính chất hoa mỹ và kịch tính của hơn 20 năm về trước.
Xu hướng có tính chiết trung này làm cho liệu pháp Gestalt không còn là một phương pháp thuần nhất nữa mà trở thành một nhóm các liệu pháp có cùng chung triết lý và phương pháp luận, nhưng lại áp dụng vô số những chiều kích kỹ thuật khác nhau, sự lựa chọn khuôn mẫu, mức độ và thể loại cấu trúc trị liệu khác nhau trong hầu hết các chủ đề lâm sàng. Do liệu pháp Gestalt đặt mục tiêu vượt ra bên ngoài việc giảm nhẹ triệu chứng, và hướng đến việc tăng trưởng, thậm chí phát triển về mặt tinh thần, cho nên thời gian trị liệu có thể là vô hạn định. Tuy nhiên, phương thức trị liệu ngắn hạn là một trong số những hình thức trị liệu tiêu chuẩn của trường phái này; có thể ở dạng ‘‘giải quyết khủng hoảng’’ (crisis model) hoặc ‘‘định hướng nội thị’’ (insight model). Thông thường, một liệu trình Gestalt không định trước thời điểm kết thúc (open-ended) có thể tự động kết thúc sau vài phiên trị liệu. Mặc dù tần số trung bình thường là mỗi tuần một lần, nhưng con số này cũng có thể thay đổi từ vài lần một tuần cho đến mỗi tuần (hoặc thưa hơn) một lần.
Hầu hết thân chủ bắt đầu bằng trị liệu cá nhân hoặc từng cặp (vợ chồng, tình nhân), còn trị liệu nhóm thì có thể thực hiện sau đó tùy trường hợp. Cá nhân: 45-50 phút mỗi phiên; cặp: 45-120 phút; nhóm: 90-120 phút. Workshop: 6-12 giờ mỗi ngày. Việc trị liệu có thể được phối hợp nhiều thể thức trên mỗi thân chủ: vừa trị liệu cá nhân, vừa trị liệu cặp, nhóm hoặc workshop. Nhà trị liệu và thân chủ thường ngồi đối diện và không ngăn cách nhau bởi những chiếc bàn.
Các phiên trị liệu được cấu trúc bởi sự tương tác giữa thân chủ và nhà trị liệu, và cả hai cùng tham gia vào việc thiết kế cấu trúc này. Khi thân chủ nghiêm túc xem xét những nguyện vọng, nhu cầu và những khả năng của mình rồi sau đó trình bày những điều này với nhà trị liệu, anh ta sẽ tham gia xác định cấu trúc của phiên trị liệu. Một số thân chủ cấu trúc các phiên trị liệu bằng cách kể câu chuyện của mình và định rõ những nhu cầu trọng tâm của mình. Nhà trị liệu giúp thân chủ làm rõ những nguyện vọng và nhu cầu của họ bằng cách chia sẻ các quan sát, phản ánh có tính thấu cảm, cung cấp thông tin, đề xuất những thực nghiệm (theo kiểu hiện tượng học) để làm rõ những ước muốn của thân chủ. Cấu trúc của việc trị liệu phải do sự tương tác giữa thân chủ và nhà trị liệu, bất kể mối quan hệ trị liệu đã được thiết lập vững chắc hay chưa.
Mục đích và các chiến lược
Mặc dù những nhà trị liệu Gestalt thường khá năng động, họ vẫn không thiết kế trước một trình tự thay đổi hành vi và định trước mục đích sau cùng của cuộc trị liệu. Công việc của nhà trị liệu thường tập trung vào việc khám phá bản thân của thân chủ hơn là trực tiếp làm thay đổi hành vi hoặc diễn giải những vấn đề trong vô thức. Liệu pháp gestalt mang lại sự nhận biết khi thân chủ bị bế tắc, mang lại sự nhận biết những tiến trình nhận biết, cung cấp sự hỗ trợ và hướng dẫn những phương thức mới trong việc đương đầu với stress.
Nét chủ yếu trong triết lý của liệu pháp Gestalt là sự tôn trọng những thực tại muôn hình, nhấn mạnh vào giá trị tích cực của sự khác biệt giữa những con người khác nhau (về các giá trị, sở nguyện và niềm tin...). Điều này cũng đúng khi xem xét sự khác biệt giữa thân chủ và nhà trị liệu. Những nhà trị liệu Gestalt thường thể hiện tính cách riêng tư của bản thân họ (thường hay bộc lộ bản thân), vì thế thân chủ cũng được dịp tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với những cảm xúc, ý nghĩ, kỹ năng, các giá trị và hành vi khác với mình. Thân chủ không được khuyến khích phải đồng nhất hóa với cách sống của nhà trị liệu, mà thay vào đó họ phải tìm kiếm cách thức riêng độc đáo của họ. Những khác biệt giữa nhà trị liệu và thân chủ trở thành trọng tâm trong đối thoại cũng như trong các thực nghiệm hiện tượng học.
Chính khi tiếp xúc với triết lý của liệu pháp Gestalt mà thân chủ mới học được cách thử nghiệm những gì là phù hợp và không phù hợp với họ thông qua sự nhận biết bản thân của chính họ. Điều đặc biệt quan trọng là một liệu pháp với một nhà trị liệu năng động cùng một phương pháp mạnh mẽ sẽ có thể trân trọng và bảo bọc cho khả năng đề kháng của thân chủ đối với quá trình nhập tâm (introjection) và trách nhiệm của nhà trị liệu là phải thận trọng trong trường hợp thân chủ vô tình điều ứng bản thân dưới ảnh hưởng của nhà trị liệu.
Mục đích trị liệu là giúp thân chủ đạt được sự tự chủ và tăng trưởng thông qua tự nhận biết về bản thân. Nhà trị liệu có vai trò hướng dẫn sự nhận biết này bằng cách hiện diện một cách tích cực với sự quan tâm, nhiệt tình, chân thực, sống động và đầy sáng tạo. Nhà trị liệu Gestalt chia sẻ với thân chủ những gì họ quan sát được và phản hồi lại những cảm nhận mà họ có được từ thân chủ. Nhà trị liệu Gestalt hiện diện như một con người thực sự, vì thế sự nhận biết bản thân có thể xảy ra trong bối cảnh có sự tương tác thực sự giữa người với người.
Các thực nghiệm hiện tượng học trong liệu pháp Gestalt được hướng dẫn ngay trong các phiên trị liệu cũng như được yêu cầu thực hiện giữa các phiên trị liệu như những ‘‘bài tập về nhà’’ (home assignments). Một nhà trị liệu giỏi sẽ phải có kiến thức tổng quan về liệu pháp và đưa ra những đề xuất để hướng dẫn thân chủ khám phá bản thân họ cả trong các phiên trị liệu và thời gian giữa các phiên trị liệu.
Các mục đích trị liệu và tiến trình thiết lập các mục đích này có sự thay đổi tùy theo giai đoạn trị liệu, vấn đề của thân chủ, cấu trúc nhân cách của thân chủ và môi trường làm việc của nhà trị liệu. Mặc dù vậy, khuôn khổ trị liệu căn bản của trường phái Gestalt về cách khám phá và đối thoại theo kiểu hiện tượng học (phenomenological exploration and dialogue) đã vận hành ngay từ thời điểm bắt đầu tiếp xúc giữa nhà trị liệu và thân chủ. Chính sự nhận biết và công việc tiếp xúc với thân chủ sẽ định hình cho tiến trình xây dựng và làm rõ mục đích trị liệu. Việc thiết lập mục đích trị liệu là một việc được thực hiện sớm trong đó khả năng tự lực (self-support) của thân chủ sẽ được tăng cường bởi hai khía cạnh chính của liệu pháp Gestalt sau đây: (1) Việc giải thích theo phương pháp hiện tượng học các kiểu mẫu ý thức và hành vi của thân chủ ; (2) Việc phát triển mối quan hệ trị liệu giữa thân chủ và nhà trị liệu.
Ví dụ, một thân chủ vào phiên trị liệu đầu tiên thể hiện thái độ không biết khởi đầu thế nào, chờ đợi nhà trị liệu cho ra những ý kiến dẫn dắt và không thể có trả lời khi được hỏi ‘‘Bạn muốn đạt được gì từ việc trị liệu?’’. Có điều gì đó từ thân chủ đã lay động nhà trị liệu và người này nói ‘‘Tôi muốn giúp bạn. Bạn cần tôi giúp bạn điều gì?’’. Người thân chủ ấy sau đó có thể đáp ứng lại bằng cách thức giao tiếp riêng tư công khai hơn.
Mức độ tự lực của thân chủ là yếu tố căn bản ban đầu phải xem xét để chọn lựa cách thức can thiệp. Những thực nghiệm và các hoạt động trị liệu khác được áp dụng với mức độ khó tăng dần và được diễn tập theo một trình tự nhằm xây dựng những kỹ năng ngay từ khi bắt đầu trị liệu để khả năng tự lực của thân chủ được tăng cường hơn và cũng không tạo nên gánh nặng quá lớn cho giai đoạn sau đó. Ví dụ, những thân chủ đã từng bị ngược đãi từ thuở nhỏ có thể tham gia trị liệu tốt hơn thông qua việc thể hiện sự giận dữ vào ban đầu khi họ học cách nhận diện và diễn đạt những cảm xúc của họ một cách an toàn, rồi sau đó học cách cố gắng tự trấn tĩnh và thư giãn khi cần thiết, kế đó phát triển một cảm nhận về lòng tin và sự an toàn khi làm việc với nhà trị liệu. Giai đoạn tiếp xúc lần đầu với một thân chủ mới đưọc xem là một bước có tính tế nhị nhằm thiết lập nên một ‘‘liên minh trị liệu’’ (therapeutic alliance). Tiếp theo sau đó là một loạt các thảo luận về các chủ đề liên quan đến cuộc sống của thân chủ mà thân chủ không nhận biết được mình thực sự mong muốn gì. Trọng tâm của việc trị liệu là làm sao để tăng cường khả năng của thân chủ trong việc nhận biết là họ muốn gì chứ không chú tâm nhiều đến nội dung của ‘‘những câu chuyện xảy ra trong tuần’’. Theo thời gian, thân chủ sẽ nhận ra được lâu nay anh ta đã làm như thế nào khiến gián đoạn khả năng nhận biết mình muốn gì; thân chủ cũng bắt đầu thích thú với cảm giác rằng mình đã biết được mình muốn gì. Thân chủ cũng bắt đầu thể hiện nhiều sáng kiến hơn trong các phiên trị liệu và nhận thấy mối quan hệ với nhà trị liệu trở nên quan trọng hơn đối với mình. Vào lúc đó, thân chủ đã có được sự tự lực đầy đủ để nhà trị liệu có thể thực hiện những quan sát và đưa ra những diễn giải nhằm bộc lộ những cảm xúc sâu đậm và giải quyết những vai trò của thân chủ trong các tương tác không lành mạnh.
Khi thực hành đúng đắn, nhà trị liệu Gestalt sẽ có những hướng dẫn theo trình tự sao cho những cuộc khám phá sâu sắc hơn, nhiều nguy cơ hơn, đau đớn hơn sẽ không vượt quá khả năng tự lực của thân chủ. Nếu thân chủ không được hướng dẫn theo cách này thì sẽ có nhiều nguy cơ nhận lấy những hậu quả tiêu cực từ việc trị liệu.
Mục đích của liệu pháp Gestalt là sự nhận biết về bản thân. Việc này bao gồm cả những nhận biết có tính vi mô (microawareness) về một nội dung cụ thể nào đó, và cả khả năng nhận biết về tiến trình nhận biết (awareness of the awareness process). Sự nhận biết tiến trình nhận biết càng làm mạnh thêm khả năng ‘‘mang những thói quen thường được thực hiện một cách tự động vào trong tầm nhận biết khi cần thiết’’, đồng thời sử dụng khả năng nhận biết có trọng điểm và các thực nghiệm hiện tượng học để tập trung, làm rõ và thử áp dụng những hành vi mới. Sự nhận biết này có nghĩa là hiểu biết được những gì mà một người đang lựa chọn để làm và vì thế người ấy có khả năng nhận trách nhiệm về việc làm đó. Tập trung (centering) là khả năng trở nên trầm tĩnh và có trật tự về thời gian, không gian, bối cảnh và nội tâm, sao cho đương sự được định hướng rõ ràng bên trong Trường (field), hài hòa với bản thân, hít thở nhẹ nhàng, biết rõ các sở nguyện và những giới hạn của bản thân.
Hầu hết các thân chủ lúc đầu đều chú ý đến việc giải quyết vấn đề và làm giảm nhẹ triệu chứng. Mặc dù các nhà trị liệu Gestalt hiểu giá trị của các mục đích này, nhưng họ quan tâm nhiều hơn đến tiến trình làm thế nào để thân chủ trở nên tự lực và cách thức để thân chủ tự tìm thấy cách thức riêng để giải quyết vấn đề cũng như giảm nhẹ triệu chứng. Mục đích trị liệu do vậy không phải là giải quyết vấn đề hoặc loại bỏ triệu chứng, mà là ‘‘giúp thân chủ có được những công cụ’’ để giải quyết vấn đề và tăng cường khả năng của họ trong việc tự tổ chức lại cuộc sống nói chung. Liệu pháp Gestalt giúp giải quyết vấn đề bằng cách gia tăng khả năng tự lực và tự điều chỉnh của thân chủ. Khi trị liệu tiếp diễn, trọng tâm sẽ được chuyển dần sang những chủ đề khái quát hơn liên quan đến nhân cách của thân chủ. Nhờ lĩnh hội được các kỹ năng trong giai đoạn đầu của việc trị liệu, thân chủ có thể thực hiện những khám phá sâu hơn về nhân cách của họ.
Tiến trình trị liệu 1: Tôi và Bạn, Ở đây và Ngay lúc này, Cái gì và Như thế nào
Liệu pháp Gestalt thuộc nhóm các liệu pháp kinh nghiệm (experiential therapy), vì thế nó thúc đẩy sự tăng trưởng của thân chủ bằng cách phát triển nên một mối quan hệ dựa trên sự tiếp xúc thông qua đối thoại và một phương pháp luận về tiến trình khám phá thông qua khả năng nhận biết liên tục của thân chủ. Các khẩu hiệu: ‘‘Tôi và Bạn’’ (I and Thou), ‘‘Ở đây và Ngay lúc này’’ (Here and Now), ‘‘Cái gì và Như thế nào’’ (What and How) thể hiện tinh thần của tiến trình này.
Tôi và Bạn
Liệu pháp Gestalt được tiến hành dựa trên cơ sở một sự tiếp xúc trực tiếp, sống động và đầy tính chất cảm xúc, trong đó nhà trị liệu vừa hiện diện cùng với thân chủ, vừa làm một điều gì đó cho thân chủ. Đây là xu hướng chung của liệu pháp Gestalt trong thập niên 1990; trong đó nhà trị liệu không chỉ sử dụng các phương pháp chú tâm và thực nghiệm hiện tượng học nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng tối đa cho thân chủ, mà còn ‘‘đi cùng’’ thân chủ theo cách thức tương tự như Martin Buber, Carl Rogers và các nhà tâm lý nhân văn khác đã thực hiện.
Các kỹ thuật phải tuân thủ những nguyên lý. Nguyên lý là quan trọng; còn từng kỹ thuật riêng biệt thì không quan trọng. Bất cứ kỹ thuật nào cũng có thể được sử dụng trong liệu pháp Gestalt, và không có một kỹ thuật nào có vị thế đặc biệt cả. Các nguyên lý chính trong liệu pháp Gestalt là những nguyên lý đang chi phối những mối quan hệ của con người, đặc biệt là mối quan hệ trị liệu.
Các kỹ thuật của liệu pháp Gestalt thường có tính linh hoạt và là sự ứng dụng một cách sáng tạo các kiến thức của nhà trị liệu nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho việc thiết lập các tình huống học tập thông qua những thực nghiệm hiện tượng học và nhằm tạo nên các tương tác trị liệu với một thân chủ cụ thể vào một thời điểm cụ thể. Thái độ này dẫn đến việc nhà trị liệu Gestalt có thể ứng dụng và vay mượn nhiều loại kỹ thuật có hiệu quả từ những nhà trị liệu thuộc các trường phái khác nhau. Điều không may là trong các nghiên cứu, dù nhà trị liệu vay mượn các kỹ thuật từ những trường phái khác hay sử dụng các kỹ thuật và phương thức được gọi là ‘‘của trường phái Gestalt’’, các kỹ thuật vẫn được nhấn mạnh nhưng quá trình các kỹ thuật ấy được sáng tạo và áp dụng trong liệu pháp Gestalt thì lại không được nêu rõ. Trong lý thuyết của liệu pháp Gestalt, điều quan trọng là nhà trị liệu làm gì và việc ấy được tiến hành ra sao, chứ kỹ thuật được áp dụng có phải là kỹ thuật của liệu pháp Gestalt hay không thì không phải là điều quan trọng.
Tại đây và Ngay lúc này
Những gì thân chủ đang thể hiện không được xem là ‘‘định sẵn’’ từ quá khứ và cũng không phải là sự lập lại một cách vô thức những quan hệ đã có trước đó (Thái độ này đối ngược lại với lý thuyết phân tâm – ND). Trong học thuyết về Trường, tất cả các yếu tố có ảnh hưởng qua lại đều cùng hiện diện ‘‘tại đây và ngay lúc này’’ trong Trường. Kurt Lewin (1938) gọi đây là ‘‘Nguyên lý về Tính đồng thời’’ (Principle of Contemporaneity).
Con người có thể mang các trải nghiệm trong cuộc sống và sự nhận biết của mình hội tụ vào thời điểm hiện tại. Trong liệu pháp Gestalt, việc khảo sát các ảnh hưởng của những trải nghiệm trong quá khứ chủ yếu dựa trên các dữ liệu từ trải nghiệm của thân chủ chứ không dựa trên các diễn giải những biểu trưng của nhà trị liệu. Càng bám sát vào các trải nghiệm trực tiếp của thân chủ, nhà trị liệu càng ở gần những ‘‘sự thật’’ của thân chủ - điều này có giá trị cao hơn những ‘‘sự thật của các chuyên gia’’.
Tập trung vào những gì ‘‘tại đây và ngay lúc này’’ cho phép có sự bình đẳng giữa thân chủ và nhà trị liệu, vì trong Trường hiện tại, tất cả các đối tác đều có thể sử dụng những cảm nhận, sự trực giác và khả năng sáng tạo của mình để khám phá những ảnh hưởng phức tạp luôn đang vận hành. Liệu pháp Gestalt không áp dụng kỹ thuật diễn giải như các nhà trị liệu phân tâm. Thân chủ thường được xem là ‘‘chuyên gia’’ về khả năng nhận biết và về sự tồn tại của chính họ, còn nhà trị liệu không gì khác hơn là một cố vấn cho thân chủ.
Thân chủ sẽ có được khả năng tự lực tốt nhất nếu họ ‘‘tập trung vào hiện tại’’ (present-centered). Tập trung vào hiện tại có nghĩa là sự hiểu biết bằng tất cả con người của mình về điều gì mình đang làm và nhu cầu nào mình đang lưu tâm đến trong Trường sinh thể - môi trường ở thời điểm hiện tại (Present-centeredness means knowing with one’s whole being what one is doing and what need is being addressed in the present organism-environment field). Phật giáo gọi việc này là "sự chuyên tâm" hay thường gọi là "chánh niệm" (mindfulness). Việc dấn thân một cách mạnh mẽ và nhận biết được điều gì là quan trọng nhất sẽ giúp chúng ta hoàn tất các gestalt (tức là đạt đến sự mãn nguyện) và làm xuất hiện các gestalt mới (tức là tăng trưởng).
Tất cả các hoạt động đều xảy ra một cách đồng thời, nhưng thường thì người ta không nhận biết rõ được mình đang làm gì và đang cần gì. Phật giáo gọi việc này là "sự lãng quên" (forgetfulness). Khi thân chủ đương đầu với những ký ức từ thời thơ ấu và sống lại chuyện ấy bằng những cảm xúc ngay trong hiện tại, những năng lượng tâm trí và hoạt động nhớ lại chuyện quá khứ kia thực sự là xảy ra trong hiện tại. Trái lại, nếu cái quá khứ đang được gợi nhớ kia chỉ là để tin rằng ‘‘chuyện trước kia gây ra chuyện hôm nay’’, hoặc như một sự lập lại theo thói quen, thì những gì đáng quan tâm trong hiện tại sẽ bị bỏ qua để thay vào đó là sự ‘‘lý trí hóa’’ các trải nghiệm.
Cũng tương tự như vậy, sự hoạch định cho tương lai cũng là một việc xảy ra trong hiện tại, trong đó con người trở nên có hệ thống hơn và chuyên tâm vào tương lai để có thể làm công việc chuẩn bị cho tương lai ấy. Suy nghĩ về tương lai mà không có sự chú tâm vào hiện tại chỉ dễ dẫn đến trạng thái lo âu mà thôi.
Cái gì và Như thế nào
Cả lý thuyết về tiến trình lẫn hiện tượng học đều thích sử dụng các phương pháp mô tả hơn là phương pháp dựa trên các lý giải. Các câu hỏi cơ bản nhất trong liệu pháp Gestalt không phải là ’’Tại sao?’’, mà là ‘‘Cái gì?’’.  Bạn đang trải nghiệm điều gì? Bạn đang làm gì? Bạn đang cần gì? Sự mô tả có thể ở gần hơn với các trải nghiệm, có thể quan sát và cảm nhận được từ bên trong, trong khi những lời giải thích thì chỉ có tính suy đoán và cách xa với các trải nghiệm.
Một câu hỏi khác đồng thời kèm theo đó là ‘‘Như thế nào?’’. Câu hỏi ‘‘Như thế nào’’ chính là trung tâm của việc định hướng vào tiến trình (process orientation) trong Học thuyết về Trường: Xem xét một cách chính xác bằng cách nào mà tiến trình này diễn ra trong đó có sự tham gia của thân chủ vào tiến trình.
Tiến trình trị liệu 2: Các thực nghiệm, kỹ thuật và các chiến lược
Liệu pháp Gestalt nhấn mạnh vào (1) Mối quan hệ trị liệu, được sâu đậm hơn nhờ sự hợp tác làm việc chung của hai phía, từ đó cho phép thực hiện các thực nghiệm (experimentations), và (2) Khả năng nội thị (insight) về nội dung và tiến trình diễn ra thông qua sự nhận biết và thực nghiệm tích cực và có trọng tâm. Cả hai điều này đã làm nên hầu hết sức mạnh hiệu quả của liệu pháp Gestalt.
Các kỹ thuật được áp dụng trong liệu pháp Gestalt bao gồm tất cả những hoạt động trị liệu thường thấy như việc lắng nghe có tính thấu cảm và kỹ thuật phản ánh; ngoài ra, nhà trị liệu Gestalt còn có thể vượt xa hơn bằng cách áp dụng bất cứ loại kỹ thuật trị liệu nào sẵn có cũng như sáng tạo những phương thức can thiệp ngay trong tình huống trị liệu. Những kỹ thuật ấy có thể kể đến: thực nghiệm giải tỏa cảm xúc (cathartic experimentation), hình dung (visualization), theo dõi các suy nghĩ (cognitive monitoring), thiền định (meditation) và thư giãn (relaxation) và các thực nghiệm bằng động tác cơ thể (experiments with movement).
Trọng tâm nhằm đạt đến khả năng nhận biết có thể thay đổi từ hình thức thảo luận về một vấn đề cụ thể, thông qua kỹ thuật phản ánh dựa trên chủ đề chung và việc huấn luyện các kỹ năng tâm lý, cho đến hình thức nội thị sâu sắc về các mô hình vận hành trong nhân cách cũng như các trải nghiệm về mặt phát triển, và sau cùng là thống hợp lại (integration) và đồng hóa (assimilation). Ngay cả khi làm việc với thân chủ trên bình diện nội dung, nhà trị liệu vẫn rất chú tâm đến các tiến trình, nhất là các tiến trình xảy ra việc thân chủ tham gia vào hoặc làm gián đoạn việc nhận biết về bản thân và tiếp xúc với người khác. Có lúc nhà trị liệu tập trung quan sát tiến trình nhưng vẫn giữ nội dung bàn luận ở vị trí nổi bật; có lúc nhà trị liệu sử dụng nội dung bàn luận như một tiêu điểm cụ thể để cho tiến trình có thể diễn ra. Giai đoạn trị liệu sau đó tiêu điểm được tập trung mạnh nhất có lẽ sẽ thuần túy là khả năng nhận biết về các tiến trình (process awareness).
Những can thiệp trị liệu là những hành vi thực nghiệm cụ thể được đề xuất từ sự hợp tác làm việc giữa thân chủ và nhà trị liệu. Những việc này luôn luôn nhắm tới việc ‘‘khám phá một điều gì đó’’ chứ không trực tiếp nhắm đến việc thay đổi hành vi. Những thực nghiệm là những việc được đề xuất để tập trung vào khả năng nhận biết bản thân mà thân chủ có thể sử dụng để làm gia tăng sức mạnh, sự linh hoạt và sự sáng tạo của những trải nghiệm mà họ có được từ trị liệu. Ngay cả những bài tập luyện về sự chú tâm đơn giản như thư giãn và kiểm soát hơi thở cũng được tiến hành với cùng một thái độ có tính thực nghiệm như vậy: ‘‘Hãy từ từ hít vào, nhẹ nhàng thở ra, rồi xem thử điều gì xảy ra với bạn’’.
Liệu pháp Gestalt khuyến khích nhà trị liệu cần phải sáng tạo (Zinker, 1977). Những quyển ‘‘cẩm nang’’ cho nhà trị liệu là điều không phù hợp với tinh thần của liệu pháp Gestalt. Kiến thức, kinh nghiệm và định hướng huấn luyện của nhà trị liệu sẽ phần nào xác định việc nội dung được khám phá là điều gì và việc ấy được thực hiện theo trình tự như thế nào trong khi trị liệu. Còn tiến trình khám phá diễn ra như thế nào thì phần nhiều mang tính nghệ thuật. Tính xác thực, sáng tạo và trực giác là những thứ thiết yếu cho sự tiếp xúc và nhận biết phong phú giúp phân biệt liệu pháp Gestalt với các phương pháp tiếp cận trị liệu rập khuôn và cứng nhắc.
Trong liệu pháp kinh nghiệm, nhà trị liệu bắt đầu bằng những gì đang được trải nghiệm. Nhà trị liệu Gestalt thực hiện một quan sát đầy đủ trên hàng loạt các dữ liệu và cho phép tạo lập nên một Ảnh rõ rệt nhất. Từ cuộc tiếp xúc ban đầu, nhà trị liệu sẽ tự động quan sát và lưu ý cách thức mà thân chủ đã ảnh hưởng đến mình một cách chủ quan. Dĩ nhiên, nhà trị liệu cần phải phân biệt rõ điều gì là những ‘‘vụ việc chưa hoàn tất’’ của chính mình và điều đó đang được ‘‘kích hoạt’’ bởi vấn đề của thân chủ (tức là hiện tượng ‘‘chuyển di ngược’’) và các hệ quả tập trung vào hiện tại.
Các thực nghiệm trong liệu pháp Gestalt, dù có vẻ như nhắm vào một hành vi cụ thể nào đó, nhưng chúng vẫn thực sự là những thực nghiệm: ‘‘Hãy làm thử điều ấy và học tập từ đó’’. Với ý nghĩa đó, thân chủ và nhà trị liệu cùng nhau thực nghiệm trong mối quan hệ được thiết lập giữa họ với nhau.
Câu hỏi cơ bản hay được nhà trị liệu đặt ra là ‘‘Bạn đang trải nghiệm điều gì ngay lúc này?’’ Việc này thường được mở rộng thành các thực nghiệm, qua đó thân chủ liên tục báo cáo lại những gì mà họ trải nghiệm được (một liên thể của sự nhận biết: awareness continuum). Điều này đẫn đến nhiều hệ quả. Khi thân chủ nêu ra những cảm xúc của họ về một ai đó hiện không có mặt trong phòng trị liệu, việc ấy sẽ dẫn đến việc thực hiện một thực nghiệm trong đó thân chủ tưởng tượng người đó đang ngồi trong phòng trên một chiếc ghế trống. Rồi sau đó thân chủ sẽ báo cáo lại một lần nữa về những gì mà họ đã trải nghiệm. Điều nối tiếp theo sau đó có thể là cảm xúc nhiều hơn, rõ rệt hơn, hoặc một ý muốn trốn chạy, hổ thẹn, hoặc có thể là sự giảm nhẹ các khó chịu vv... Sự biểu lộ cảm xúc một cách trực tiếp thường mang lại một tiêu điểm tập trung sắc nét hơn, sự trải nghiệm sống động hơn, rõ rệt hơn và thực sự là một giải pháp hơn là việc chỉ ‘‘nói về’’ đối tượng như một ngôi thứ ba. Chính vì lý do ấy mà thực nghiệm ‘‘chiếc ghế trống’’ thường được áp dụng.
Các thực nghiệm hiện tượng học và sự tiếp xúc qua đối thoại có thể được áp dụng cho trị liệu cá nhân, gia đình, nhóm, cặp và cả cho các thiết chế (institutions). Về mức độ, các thực nghiệm có thể thực hiện trên cả bình diện nội tâm lẫn bình diện liên cá nhân, và từ mức độ ‘‘nhập môn’’ cho đến cả mức độ rất sâu. Các thực nghiệm đôi khi có tính chất đi sâu vào lĩnh vực tinh thần, mặc dù nhà trị liệu Gestalt vẫn thường sử dụng những ngôn từ rất ‘‘đời thường’’.
Các thực nghiệm có thể có những mục đích sau:
  1. Làm rõ hơn những gì mà thân chủ đã nhận biết và tạo nên những liên kết mới giữa những nội dung đã được nhận biết
  2. Đưa vào tiêu điểm nhận biết những nội dung mà ban đầu chỉ ở vùng ‘‘ngoại vi’’ của sự nhận biết
  3. Đưa những nội dung quan trọng vào trong tầm nhận biết mà thân chủ lúc ban đầu đã cố gắng một cách có hệ thống giữ chúng ở bên ngoài sự nhận biết
  4. Đưa cả những cố gắng ngăn trở sự nhận biết có hệ thống này vào trong tầm nhận biết, đặc biệt là những cơ chế ngăn trở các suy nghĩ và cảm xúc khiến thân chủ ban đầu không nhận biết được chúng
  5. Thực nghiệm những kiểu thức mới trong suy nghĩ, ứng xử và nhận biết, bao gồm cả những phương thức có tính tự lực như thiền định, thư giãn và luyện thở. Các thực nghiệm thường được áp dụng hiệu quả là những cách thức mới trong việc khám phá hoặc tái định dạng những trải nghiệm cũ. Việc trị liệu thường làm cho những thực nghiệm có tính hành động dễ thực hiện hơn, ví dụ: mở rộng các quan hệ xã hội sau khi đã khơi thông nỗi sợ hãi những tình cảm mật thiết. Nhiều thân chủ từng bị lạm dụng đã tìm thấy sự bình phục sau khi thể hiện hung tính của họ chống lại kẻ đã làm hại họ thông qua hoạt động ‘‘sắm vai’’ (role-playing) hoặc các thực nghiệm giải tỏa cảm xúc (cathartic experiments).
Trọng tâm của các thực nghiệm là nhằm để thân chủ khám phá (discovery) chứ không phải là để giải tỏa cảm xúc (catharsis). Thông thường, những thứ cần được khám phá đó là những nỗi sợ hãi sự hiểu biết, sợ hãi sự bộc lộ, sợ hãi việc giải bày cảm xúc. Bất cứ điều được khám phá là gì, chúng đều trở thành Nền để dẫn đến việc tạo lập những Ảnh mới.
Quan điểm nhà trị liệu
Liệu pháp Gestalt giúp thân chủ tăng trưởng thông qua sự nhận biết bản thân. Liệu pháp Gestalt được được tiến hành thông qua mối quan hệ đối thoại hai ngôi ‘‘Tôi-và-Bạn’’ (I-thou attitude). Trong tâm lý trị liệu, yếu tố quan trọng nhất giúp cho sự bình phục đó chính là bản chất và chất lượng của mối quan hệ giữa thân chủ và nhà trị liệu. Trong liệu pháp Gestalt, mối quan hệ này là ngang bằng, nghĩa là không ai trong hai phía cố gắng kiểm soát người kia, hoặc cố gắng định trước kết quả, và nhà trị liệu cũng không phải là ‘‘người nắm giữ sự thật’’. Kết quả của việc trị liệu luôn là do sự làm việc chung của cả hai phía.
Đối thoại là sự gặp gỡ để trao đổi với một người, như thể người đó là đích điểm của đối thoại (tôi-và-bạn), chứ không phải người ấy là ‘‘phương tiện’’ để đạt đến một cái đích khác (tôi-và-nó). Liên hệ với một người để đạt đến một mục đích chính là một hoạt động theo kiểu “tôi-và-nó” (nghĩa là nói về một điều gì khác ở ngôi thứ ba). Người ta không thể vừa ở trong cuộc đối thoại vừa nhắm đến một “kết quả”. Mục đích của đối thoại chính là để gặp một người khác, chứ không phải để “tự hiện thực hóa” hoặc để “chữa lành”.
Có ba tính chất đặc trưng cho một mối quan hệ thông qua đối thoại:
  1. Sự nhập cuộc (Inclusion): Là tiến trình nhà trị liệu ngoại hiện bản thân một cách đầy đủ vào trong những trải nghiệm và tính chủ quan của thân chủ, đồng thời vẫn giữ được sự nhận biết về bản thân mình như một con người tách biệt. Khái niệm này hơi giống với ‘‘sự thấu cảm’’. Bằng cách nói ra các trải nghiệm của thân chủ, ‘‘hình dung ra sự thật’’, nhà trị liệu xác nhận sự tồn tại và các trải nghiệm của thân chủ.
  2. Hiện diện như chính con người thật của mình (Presence): Nhà trị liệu không có gắng ‘‘ra vẻ’’ hoặc trở thành một con người khác với chính con người thật của mình. Dĩ nhiên, để làm được việc này, nhà trị liệu cần phải có sự hình dung khá rõ ràng về hình ảnh bản thân của mình và có một phong cách hài hòa trong khi thực hành tâm lý trị liệu. Nhà trị liệu không cố thể hiện mình như một con người lý tưởng, hoặc như một ‘‘bức màn trắng tinh’’ để thân chủ thực hiện sự phóng chiếu. Việc nhà trị liệu tự bộc lộ bản thân (self-disclosure) chỉ khi nào điều đó thực sự là cần thiết và phải cân nhắc để có lợi cho thân chủ. Những trường hợp nhà trị liệu mắc mứu vào cuộc trị liệu (excessive self-reference), hoặc trở nên quá tách biệt về mặt cảm xúc (excessive emotional isolation), lúc đó có chỉ định tiến hành trị liệu hoặc giám sát cho nhà trị liệu.
  3. Dấn thân vào cuộc đối thoại (Commitment to dialogue): Cả thân chủ và nhà trị liệu đều sẵn lòng tham gia vào tiến trình đối thoại, tương tác, không kiểm soát hoặc định trước những gì nêu ra trong chủ đề đối thoại. Mỗi bên đều phải chấp nhận việc mối quan hệ tương tác với phía bên kia sẽ có thể có tác động lên trên hình ảnh tự thân (self-picture) và tính chủ quan của chính mình. Đối thoại cũng là một loại thực nghiệm hiện tượng học. Con người khi đối thoại thì đồng thời cũng đang tương tác, kết quả không hề được định trước; khi đó khả năng học tập và tăng trưởng sẽ được phát huy. Liệu pháp Gestalt có tính công khai về bản chất hiện tượng học của nó và các đối thoại cũng có tính thực nghiệm. Trong khi tiến hành liệu pháp Gestalt, chúng ta làm thăng tiến khả năng học tập và tăng trưởng bằng cách cho phép cả nhà trị liệu lẫn thân chủ trở nên sáng tạo trong khi tiến hành các hoạt động trị liệu. Triết lý của liệu pháp không được nói ra cho thân chủ nhưng thân chủ được mời gọi đi vào thực nghiệm với triết lý ấy.
YẾU TỐ BÌNH PHỤC
Con người tự duy trì bản thân mình và sự tăng trưởng bằng cách tiếp xúc với môi trường xung quanh. Khi có khả năng nhận biết đầy đủ, họ sẽ có thể học tập được từ những trải nghiệm có được nhờ sự tiếp xúc ấy. Khi con người không nhận ra được những trải nghiệm của chính mình, họ sẽ tự ngăn trở sự tăng trưởng của chính mình.
Học thuyết về sự thay đổi của liệu pháp Gestalt được gọi là Học thuyết nghịch lý về sự thay đổi (paradoxical theory of change): Thay đổi chỉ xảy ra khi một người thể hiện con người mà anh ta thực sự là chứ không phải khi anh ta cố gắng trở thành con người mà anh ta chưa là. Sự thay đổi không xảy ra khi có một sự cố gắng ép buộc của bản thân đương sự (hoặc bởi người khác) nhằm thay đổi bản thân mình; thay đổi chỉ xảy ra khi một con người dành thòi gian và công sức của mình để trở thành con người mà mình đang là – tức là đương sự phải đầu tư đầy đủ vào vị thế hiện tại của mình.
Nói cách khác, thay đổi có thể xảy ra khi thân chủ bỏ qua, ít nhất là ngay trong lúc này, những gì mà anh ta muốn trở thành và cố gắng sống đúng với con người thật của mình – giống như một người phải đứng vững tại một chỗ thì mới có được những bước vững chắc để đi tới phía trước.
Những cách thức như thuyết phục, diễn giải hoặc điều chỉnh hành vi không phải là những cách thức chủ yếu để giúp một người thay đổi. Bình phục có nghĩa là “tạo nên cái tổng thể”, mang những khía cạnh đang xung đột với nhau vào trong một tổng thể hài hòa và có ý nghĩa. Do vậy, cần mang những khía cạnh đang xung đột vào trong tầng nhận biết, chấp nhận những điều còn đang mâu thuẫn trong nội tâm, thống hợp chúng lại trong một cái ngã toàn vẹn có tính nhập cuộc.
Các yếu tố khác giúp cho sự bình phục:
-          Mối quan hệ và sự thay đổi có tính trị liệu: Trong liệu pháp Gestalt, con người không thể được xem xét một cách đầy đủ nếu tách rời người đó ra khỏi bối cảnh các tương tác liên cá nhân. Sự phát triển của con người, cả bình thường lẫn bệnh lý, đều là những tiến trình có tính xã hội. Sự lành mạnh hoặc bệnh lý đều được duy trì bởi môi trường tương tác. Tâm lý trị liệu cũng là một tiến trình tương tác. Thay đổi thực sự diễn ra khi nhà trị liệu có thái độ đối thoại, trình bày rõ sự hiểu biết của mình đối với những trải nghiệm chủ quan của thân chủ, có khả năng tự bộc lộ, nhiệt tình và chấp nhận thân chủ.
-          Xây dựng khả năng tự lực (self-support): Tiến trình thay đổi đi từ những bước thay đổi nhỏ cho đến những bước thay đổi lớn hơn. Buổi đầu trị liệu có thể hướng đến những khả năng nhận biết nho nhỏ, lĩnh hội kỹ năng, xây dựng các tiếp xúc... Nhưng đây vẫn chưa phải là những thay đổi trong cái toàn thể. Những thành quả cụ thể trong bước đầu có thể trở thành nền tảng cho những thay đổi sâu xa hơn có thể diễn ra khi trị liệu tiến triển lâu hơn. Cũng khá thường xảy ra việc thân chủ tạm ngưng trị liệu, như thể để ‘‘thụ hưởng những quả ngọt’’ từ việc trị liệu, ‘‘tiêu hóa’’ chúng, rồi sau đó trở lại để bước sang những mức độ trị liệu sâu hơn.
-          Khả năng nội thị (insight): Từng hành vi riêng biệt (những khía cạnh riêng lẻ của nhân cách) có thể được thay đổi bằng nhiều cách như: tự thay đổi theo thời gian, nhờ khơi thông cảm xúc, bằng cách cháp nhận một mối quan hệ, hoặc nhờ thay đổi tác nhân củng cố, nhờ dùng thuốc, vv... Tuy nhiên, để thay đổi cấu trúc tự tổ chức của một con người, để có được những thay đổi và tăng trưởng liên tục sau khi trị liệu, và cũng để phát huy tối đa khả năng thích nghi đầy sáng tạo với cuộc sống, thân chủ cần phải có được khả năng nội thị - một điều thường không thể đạt được nếu không có sự làm việc một cách hệ thống và có hướng dẫn bên trong mối quan hệ ngày càng phát triển giữa thân chủ và nhà trị liệu. Nội thị là một trải nghiệm được cảm nhận từ nhiều sự kiện căn bản trong đời sống của thân chủ và được định dạng thành một gestalt có ý nghĩa. Liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến việc bảo tồn hoặc thiết lập một tiến trình nhận biết từ đó dẫn đến khả năng nội thị, bao gồm cả sự nhận biết về những vấn đề có liên hệ từ trong quá khứ. Phương pháp trị liệu chủ yếu tập trung vào các tương tác hiện tại, nhưng sự nhận biết của thân chủ có thể bao gồm cả những cách thức xem xét trong hiện tại đối với những việc đã xảy ra trong quá khứ. Khi những sự việc có ảnh hưởng trở nên mạnh mẽ và vượt khỏi tầm nhận biết, hoặc bị mắc mứu dưới dạng thức cứng nhắc khó thay đổi theo nhu cầu của hoàn cảnh sống, thì việc khám phá các ‘‘yếu tố thuộc về lịch sử’’ để đạt đến khả năng nội thị sẽ trở nên một việc làm tuyệt đối cần thiết nhằm phá vỡ những gestalt bị ‘‘đóng cứng’’ hoặc không đáp ứng với những nhu cầu trong hiện tại. Nếu chỉ làm việc trên những sự kiện quan sát được trong hiện tại mà không xem xét đến những yếu tố nền tảng như thế, hoặc chỉ làm việc đơn thuần bằng sự ‘‘nội thị có tính lịch sử’’ (historical insight) đều sẽ làm giới hạn hiệu quả của việc trị liệu.
Liệu pháp Gestalt nói chung đã được áp dụng cho nhiều loại thân chủ khác nhau, vói nguyên tắc chung là phải điều chỉnh cho phù hợp với từng tình huống lâm sàng cụ thể (Yontef, 1993). Có thể áp dụng cho nhiều loại chẩn đoán khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau: cá nhân, cặp, nhóm, gia đình, và đồng thời cũng có thể áp dụng cho nhiều lứa tuổi khác nhau, kể cả trẻ em. Tuy nhiên, nhà trị liệu cần phải xác định rõ khuôn khổ của việc trị liệu, các ranh giới nghề nghiệp và phải là người nhạy cảm với các trải nghiệm của thân chủ - Nói chung đó là một người cần được đào tạo tốt và có kinh nghiệm lâm sàng.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét