16 tháng 10 2011

TRÀO LƯU NHÂN VĂN – HIỆN SINH TRONG TÂM LÝ TRỊ LIỆU
 
BS. NguyỄN Minh TiẾn
Nói một cách khái quát, trào lưu nhân văn – hiện sinh (existential-humanistic approach) có cơ sở từ trong tất cả những tư tưởng của con người về sự nhiệm mầu của ý thức và của cuộc sống. Nói tỉ mỉ hơn, chúng ta có thể phát hiện những cội nguồn của trào lưu này ngay từ thời có những quan điểm muốn “khách thể hóa” (objectify) những trải nghiệm của con người của những nhà tư tưởng như Aristotle, Newton, Descartes; cho đến những khuynh hướng hiện đại hơn muốn đặt nặng tầm quan trọng vào “tính chất chủ quan” của con người (human subjectivity) của các học giả trong thế kỷ 20 như Husserl, Heidegger, Sartre và Merleau-Ponty. 
 
Những tác giả theo chủ nghĩa hiện sinh (existentialists), cùng với những nhà tâm lý nổi tiếng như Freud, Gordon Allport, Buber, William James, và các triết gia như Ortega y Gasset và Pascal, đã phát biểu về ý nghĩa cốt yếu của các trải nghiệm (experience) trong nội tâm của con người. Trong khi đó, quan điểm nhân văn (humanistic perspective) trong tâm lý học, tiêu biểu bởi các tác giả như Anderson, Bugental, Arthur Deikman, Erich Fromm, George Kelly, Sidney Jourard, Abraham Maslow, Carl Rogers, lại phát triển mạnh trong khoảng bốn thập niên cuối thế kỷ 20 và trở nên đồng điệu với trào lưu tư tưởng hiện sinh. Tất cả những trào lưu tư tưởng này có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ trên sự phát triển của ngành tâm lý trị liệu trong khoảng thời gian này. Sự kết hợp hai dòng tư tưởng hiện sinh và nhân văn đã đưa sự chú tâm của những nhà chuyên môn trở về với những chủ đề đậm chất con người như: tình yêu, sự ganh ghét, tính trung thực, sự phản bội, lòng can đảm, sự giận dữ, đức hy sinh, sự toàn mỹ, tính sáng tạo, sự độc ác, cùng với những chiều kích khác rất phong phú nhưng cũng đầy mâu thuẫn trong cuộc sống nội tâm của tất cả chúng ta.
Trong thập niên 1960, những thách thức đối với các mô hình tâm lý trị liệu theo truyền thống phần nào đã thúc đẩy sự phá vỡ các mô hình trị liệu kém hiệu lực của phương pháp phân tâm cổ điển và đồng thời cũng phá vỡ những tầm nhìn còn nhiều hạn chế của các nhà trị liệu không phải phân tâm. Và như câu châm ngôn của Alexander Pope: “Việc nghiên cứu đúng đắn về con người chính là loài người” (The proper study of humans is humankind). Việc này đặt nặng vai trò trung tâm của đời sống chủ quan của con người bao gồm sự nhận biết, chú tâm, xúc cảm, nhận thức, cùng tất cả những chiều kích muôn màu muôn vẻ trong cuộc sống. Mỗi tác giả theo khuynh hướng nhân văn – hiện sinh đều có cách riêng độc đáo của mình, tuy nhiên tất cả họ đều chia sẻ lòng tin vào sự thánh thiện và tiềm năng của đời sống con người, đặc biệt là đời sống nội tâm. Sự phát triển khuynh hướng nhân văn – hiện sinh cũng hòa nhịp cùng với trào lưu “hiện tượng học” trong ngành tâm lý học (phenomenological psychology).
Do vậy có một “dòng sông” được tạo nên bởi ba nhánh phụ bao gồm: (1) Tâm lý học hiện sinh và triết học hiện sinh; (2) Tâm lý học nhân văn và (3) Phương pháp nghiên cứu và quan điểm hiện tượng học. Tất cả những trào lưu này cùng tương tác và có ảnh hưởng lên quan điểm của trường phái nhân văn – hiện sinh trong tâm lý học nói chung và tâm lý trị liệu nói riêng ở các nước phương Tây.
Lịch sử văn hóa phương Tây (cũng như toàn thế giới) đã chứng kiến rất nhiều những mối công kích tràn lan lên những nguồn lực mang lại ý nghĩa cho đời sống của con người. Trong một châu Âu đang hồi phục từ những sang chấn hàng loạt sau chiến tranh thế giới thứ hai, tất cả những nhà tư tưởng đều phải đối mặt với một thực tại về sự hủy diệt của con người. Một số người có tư duy mang nặng tính hình thái cơ học (mechanomorphs), xem con người chỉ như là những cỗ máy được chi phối bởi những tác nhân có ảnh hưởng từ bên ngoài. Một số trở nên bi quan nhìn đời đen tối, xem toàn bộ thế gian này là một sự phi lý. Một số người khác lại cố tìm cách cứu vớt những hy vọng còn sót lại sau những hủy hoại do chiến tranh và thất bại kinh tế.
Nhiều nhà chuyên môn như các bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý và các cán bộ xã hội nhận thấy rằng những phương thức trị liệu tâm lý theo truyền thống lúc ấy (chủ yếu dựa trên nền tảng phân tâm và các tư vấn khuyên bảo) là không đầy đủ và hiệu quả nữa. Ngoài ra, cũng có ảnh hưởng từ những thay đổi trong thái độ của công chúng nói chung về việc thế nào là “được trị liệu” và những kỳ vọng thông thường về những gì mà tâm lý trị liệu có thể mang lại. Thay vì chỉ trông đợi được trị liệu tâm lý khi mắc phải những tâm bệnh quan trọng, những thân chủ mới của thời kỳ ấy có thể tìm kiếm sự trợ giúp khi họ gặp phải những vấn đề rất đời thường nhưng có tính cấp bách của cuộc sống như ly hôn, trầm cảm, thất tình, bất đắc chí, cô đơn, ghen tuông, những tình trạng xâm hại, lạm dụng, những nỗi lo sợ thường xuyên và các chủ đề thông thường khác trong đời sống (tức là những vấn đề có ảnh hưởng lên trên sự “tồn tại” hay “hiện sinh”), và họ đã đưa các chủ đề ấy vào trong các phòng tư vấn.
Chuyên ngành sức khỏe tâm thần có sẵn lúc ấy đã chậm trễ không nhận ra những thay đổi này, không nhận ra những gì mà các thân chủ yêu cầu nơi họ cũng như những gì mà người trong ngành cần phải dạy và học. Hậu quả là nhiều chuyên gia không phải ngành y khoa như các nhà giáo, nhân viên xã hội, những người thiện nguyện... đôi khi chỉ có học vị master trong các lĩnh vực chuyên môn của mình đã đứng ra đảm trách việc đáp ứng cho các nhu cầu đang lên ấy và đã nhanh chóng nắm bắt ngành nghề mới mẻ này (Tình hình này rất giống với sự hình thành ngành Tư vấn Tâm lý tại Việt Nam vào những năm sau chiến tranh - Người dịch).
Cả một pho tư liệu bao gồm nhiều công trình nghiên cứu đã xuất hiện và góp phần đáng kể vào việc hình thành phương pháp trị liệu theo hướng nhân văn – hiện sinh, một phương pháp có gốc rễ bắt nguồn từ rất nhiều khuynh hướng trị liệu trước đó. Ở đây ta có thể kể đến một số nội dung có ảnh hưởng quan trọng nhất như:
-          Các luận thuyết của Freud về sự phản kháng, chuyển di và chuyển di ngược (resistance, transference, countertransference), cùng với sức mạnh và sự phong phú của vô thức.
-          Lòng tin của Carl Rogers về tiềm năng tự bình phục của thân chủ và vai trò trung tâm của bản ngã (self).
-          Sự khẳng định của Husserl về vai trò trung tâm của chủ thể và sự mở rộng các trải nghiệm của con người theo cách thức làm mới liên tục thông qua bối cảnh của cuộc sống thường ngày từ lúc này sang lúc khác.
-          Từ việc Rollo May mang quan điểm hiện sinh vào trong tâm lý trị liệu, với sự nhấn mạnh vào hiện tại, sự thách thức đối đầu với thực tế cuộc sống (confrontation), và vai trò quan trọng của sự chủ tâm có dự định của con người. May cũng mang đến những nghiên cứu về những trải nghiệm cơ bản trong cuộc sống con người như về sự lo âu, tình yêu, ý chí, sức mạnh, sự vô tội...)
-          Allen Wheelis nhiều lần đòi hỏi con người phải đối mặt với những bi kịch, với sự méo mó và trống trải vốn là một phần trong cuộc sống.
-          Irvin Yalom thận trọng kết hợp những ý nghĩa trong việc thực hành tâm lý trị liệu với những giả định cơ bản trong cuộc sống.
-          Peter Koestenbaum dùng những tư duy có tính triết lý để mô tả các đề tài của cuộc sống và đã nghiên cứu về “sự sống động của cái chết” (vitality of death).
Việc thực hành tâm lý trị liệu theo quan điểm nhân văn – hiện sinh do vậy cũng đa dạng và phong phú như chính sự phát triển của trào lưu tư tưởng này. Đối với nhiều người, quan điểm này đã góp phần chủ yếu vào việc mở rộng phạm vi thích ứng với các phương pháp và khái niệm từ nhiều học thuyết nền tảng khác nhau. Vì thế, ngày nay, phạm vi ứng dụng của quan điểm này đã mở rộng từ những nhà trị liệu phân tâm theo kiểu truyền thống cho đến những tác giả ủng hộ việc trị liệu theo xu hướng ngắn hạn, tập trung trị liệu triệu chứng (symptom-focused) và cả những nhà trị liệu thực hành các liệu pháp dài hạn hướng đến những thay đổi lâu dài trong cuộc sống. Những tác giả của bài viết này chủ yếu thực hiện công việc mô tả quan điểm nhân văn – hiện sinh như những báo cáo viên có tính trung dung, nêu lên những lập trường có tính quan điểm và những áp dụng của chúng trên lĩnh vực lâm sàng.
Có hai sự chuyển biến trong tư duy của ngành tâm lý học đã tạo nên nền tảng cho quan điểm nhân văn – hiện sinh: (1) Chuyển từ việc “khách thể hóa” các hiện tượng tâm lý sang việc nhận ra tầm quan trọng của “tính chủ quan”; (2) Chuyển đổi lĩnh vực tâm lý trị liệu từ chỗ chủ yếu nghiên cứu về các trạng thái tâm bệnh kinh điển (như loạn tâm hoặc nhiễu tâm) trở thành một ngành ứng dụng rộng rãi vào các chủ đề rộng hơn, bao gồm cả những chủ đề gây phiền muộn thông thường trong cuộc sống.
Nói thẳng ra, phần lớn các trường phái tâm lý trị liệu đều xem thân chủ như những “khách thể” (object), có thể là đối tượng để nghiên cứu, để hiểu biết, có thể “tác động” vào để làm cho thay đổi...; thân chủ cũng có thể được xem như những “vấn đề” từ đó có thể được phân tích, xem xét và “giải quyết”; hoặc họ cũng có thể được xem như những người bệnh cần được “chữa trị”... Theo quan điểm nhân văn – hiện sinh, thân chủ về căn bản được xem như những “chủ thể” (subject) tham gia vào tiến trình trị liệu, còn nhà trị liệu được xem như một người hỗ trợ, một cố vấn hoặc như một người đồng hành trong lúc thân chủ đang cố gắng làm cho đời sống của mình trở nên dễ chịu hơn, toại ý hơn. Những chủ đề mà quan điểm nhân văn – hiện sinh lưu tâm đến cũng rất đa dạng và điều này cũng liên quan mật thiết đến sự phát triển, bởi chừng nào mà lĩnh vực tâm lý vẫn còn là một lĩnh vực chú tâm đến những rối loạn tâm trí nghiêm trọng và rõ ràng thì cái nhìn của nhà trị liệu đối với thân chủ cũng vẫn nhắm đến việc “khách thể hóa”, tìm cách “xử lý” các triệu chứng và tạo nên mối quan hệ xa cách giữa một bên là “nhà chuyên môn” và bên kia là “bệnh nhân”.
Các thủ tục chẩn đoán theo thông lệ đòi hỏi nhà lâm sàng phải giữ khoảng cách “từ xa” để có thể xác định được những tình trạng của thân chủ bằng cách xem xét các biểu hiện hành vi của họ. Đây là cách thức làm việc dựa trên lập trường “phi nhân tính” và “khách thể hóa” (impersonal and objectifying). Trái lại, tính “chủ quan” (subjectivity) chủ yếu dựa vào sự lưu ý đến những trải nghiệm bên trong nội tâm của cả thân chủ lẫn nhà trị liệu, chú ý đến những cảm nhận, ý nghĩa và cảm xúc ở từng con người từ lúc này sang lúc khác, cùng sự thể hiện của những trải nghiệm đó trong mối quan hệ sống động giữa nhà trị liệu và thân chủ lúc đang diễn ra cuộc gặp gỡ giữa họ với nhau. Đây là một lập trường có tính cá nhân, dựa trên mối quan hệ giữa người với người và có xem xét đến nội tâm con người (personal, interpersonal and intrapsychic).
Cả sự chú trọng đến tính chủ quan lẫn việc mở rộng chủ đề phục vụ sang nhiều lĩnh vực thông thường trong đời sống cũng góp phần vào việc “định nghĩa lại” thế nào là “làm người” và thế nào là “những nỗi khổ của con người”, và đương nhiên cũng giúp xác định lại cách thức để loại bỏ những nỗi khổ đó. Bằng cách thức này, những nỗi khổ của con người, với một mức độ khá quan trọng, được xem như là những điều được nhận biết một cách chủ quan, thay vì xem chúng như những “sự trừng phạt về mặt đạo đức”, một “căn bệnh” mà người bệnh mắc phải, một thất bại về mặt tính cách, hoặc như một rối loạn về mặt hóa học hoặc thực thể.
Những sự chuyển biến trong lập trường và quan điểm này đưa chúng ta đến việc nhận thức được rằng những nỗi khổ là có tính chủ quan, và do vậy tiến trình làm vơi đi những nỗi khổ ấy ít nhất cũng phần nào tương tự như vậy. Điều này trái ngược với những tác giả chủ trương sử dụng các phương thức điều trị hóa dược hoặc thay đổi hành vi; những người này thường cho rằng tính chủ quan không phải là yếu tố quan trọng cả trong việc hình thành những phiền nhiễu nơi thân chủ lẫn trong phương thức để “chữa lành” chúng. Đối lập với những tác giả này là những nhà trị liệu theo khuynh hướng nhân văn – hiện sinh, những người có lòng tin rằng sức mạnh luôn tồn tại bên trong con người, và rằng chính cái sức mạnh đã gây ra nỗi đau khổ kia cũng có thể được “chuyển hướng” để đưa đến sự bình phục.
KHÁI NIỆM VỀ NHÂN CÁCH
Thuật ngữ “nhân cách” không được xem là cách dùng từ hữu ích. Nhân cách là một khái niệm trừu tượng, không chính xác, cả trong ngôn ngữ khoa học lẫn phổ thông. Nhân cách là khái niệm trừu tượng chứ không “có tính hiện tượng” (phenomenological). Do vậy, thay vì cố gắng trình bày khái niệm nhân cách với một ý nghĩa đặc biệt nào đó, các tác giả theo xu hướng nhân văn – hiện sinh chỉ nêu ra một số khái niệm có liên quan với nhau, mỗi khái niệm thể hiện một khía cạnh có tính tiến trình quan trọng của con người.
Từ khóa (key word) ở đây là “tiến trình”. Thay vì mô tả những cấu trúc có tính cố định, các tác giả nhận thấy sẽ hữu ích hơn nếu công nhận cơ chế động năng liên tục (continual dynamism) của đời sống con người – một “dòng chảy” không ngừng của đời sống về tất cả một phương diện. Chính Gordon Allport (1964) cũng có lần nêu rõ “Cấu trúc là sản phẩm được thải xuất ra từ các tiến trình” (Structure is the secretion of process).
Tính chủ quan (subjectivity)
Như đã nêu trên, quan điểm về tính chủ quan là nền tảng của nhãn quan nhân văn – hiện sinh (còn gọi là nhãn quan “hiện tượng học” – phenomenological - trong văn phong nghi thức hơn). Khái niệm này có ý nói về những trải nghiệm bên trong của cả nhà trị liệu lẫn thân chủ như những “cảnh quang” chính trong quá trình chúng ta cố gắng chú tâm và làm việc. Lập trường này rất khác biệt với phần đông những trường phái khác trong tâm lý học cũng như tâm lý trị liệu hiện nay đang cố “tranh đua” với các ngành khoa học tự nhiên về tính “khách quan”, chính xác.
Tập trung vào tính chủ quan tức là chú tâm vào những gì con người cảm nhận được, vào cảm xúc trong hiện tại, vào những dự định và toàn bộ những trải nghiệm ẩn sâu trong mỗi con người (thân chủ). Điều này có lúc bị hiểu sai là sự chú tâm vào những tình cảm (emotions), và tuy đôi khi đúng là như thế nhưng quả là một sự bóp méo nếu người ta xem việc nhấn mạnh vào tính chủ quan như là cách thức xem cảm xúc (feelings) có ý nghĩa quan trọng hơn các lĩnh vực tư duy và các suy nghĩ có chủ ý (cognitive and intentional spheres).
Liên chủ thể (intersubjectivity)
Khi hai con người tham gia sâu vào một công việc chung, ví dụ như mối quan hệ trong tâm lý trị liệu, sẽ tạo nên một hiện tượng (phenomenon) với những thuộc tính  lớn hơn tổng số hai thành phần hợp lại. Sản phẩm mới tạo lập này được gọi là “liên chủ thể” (intersubjectve) (Levenson, 1983, 1991; Stolorow, Brandtchaft & Atwood, 1987).  Đó là sản phẩm của tiến trình nhận biết cả có ý thức lẫn dưới ngưỡng ý thức, về cả những gì được nói lẫn chưa được nói, cả những tín hiệu từ lời nói lẫn từ cơ thể, cả trong ký ức hiện tại lẫn dự báo cho tương lai, và phần nhiều những sự nhận biết này khó có thể nói hết thành lời.
Bằng thuật ngữ hiện sinh quen thuộc hơn, các tác giả hay nói về tình trạng căn bản này của con người như là một tình trạng vừa tách rời khỏi người khác vừa vẫn như là một phần của người khác. Điều này cũng có ngụ ý khi nói về những cam kết trong việc trị liệu, cũng như sự phân tích các quá trình xảy ra trong trị liệu như phản kháng (resistance), chuyển di (transference) và chuyển di ngược (counter-transference) (Bugental, 1987).
Sự hiện hữu (presence)
Để có thể thực sự hiện hữu người ta phải nhận biết và tham gia đầy đủ vào thực tế sống ngay trong hiện tại, không sống tách biệt, đảm nhận các vai trò và khách thể hóa bản ngã của mình (self-objectification). Mức độ hiện hữu của chúng ta trong từng hoàn cảnh sống cụ thể luôn luôn thay đổi, bởi vì những trạng thái tình cảm, các dự định, các mối quan hệ với người xung quanh và nhiều chiều kích khác trong cuộc sống của chúng ta cũng liên tục thay đổi. Khi xem xét sự hiện hữu bên trong tình huống tâm lý trị liệu, chúng ta có thể thấy rằng cả hai con người, nhà trị liệu và thân chủ, đều cần phải hiện hữu một cách đầy đủ; nhưng đồng thời chúng ta cũng nhận thấy rằng đây không phải là một trạng thái mà một khi đã hình thành thì đương nhiên sẽ được duy trì sau đó. Sự hiện hữu ấy rất quan trọng trong tâm lý trị liệu; đó là một mục đích luôn phải được tìm kiếm liên tục nhưng thường lại hay bị bỏ quên.
Những nhà trị liệu thông thái sẽ học cách quán sát sự hiện hữu của chính bản thân mình cũng như sự hiện hữu của thân chủ và nhận biết được những cách thức đặc trưng mà con người sử dụng để né tránh hiện hữu. Những cách thức né tránh này (sẽ mô tả trong phần sau) góp phần hình thành nên sự phản kháng (resistance) và luôn là một chủ đề quan trọng trong tâm lý trị liệu.
Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới (Self-and-World Construct System)
Ngay từ những giờ phút đầu tiên trong đời, chúng ta đã thực sự dấn thân vào một quá trình vừa khám phá, vừa tạo tác nên một thế giới trong đó chúng ta sống và lập nên một bản sắc để bản thân mình có được một “chỗ đứng” trong thế gian này. Tất nhiên, phần nhiều những công việc sống động này là có tính tiềm ẩn, không diễn đạt được bằng lời và xảy ra bên ngoài tầm nhận biết. Tuy nhiên, cuộc sống sinh động của chúng ta tùy thuộc vào cách thức mà ta thực hiện quá trình này.
Để sống trong thế gian, chúng ta phải hiểu rõ những gì là “tốt” và những gì là “nguy hiểm”; những gì có thể cho chúng ta sức mạnh, sự nâng đỡ và bảo vệ; những gì chúng ta phải làm để đạt đến sự hài lòng và tránh được những khổ đau. Trong khi hình thành những quan điểm này, chúng ta vẫn liên tục phát triển, duyệt xét lại và thể hiện quan niệm sống của chính mình – về những gì là sức mạnh và điểm yếu của chúng ta; về cách thức mà chúng ta xử lý các tình huống sống và về những gì mà chúng ta cố gắng tìm kiếm sâu xa nhất. Tất nhiên, phần lớn cái hệ thống Ngã-và-Thế-giới này tồn tại một cách tiềm ẩn và không thể diễn đạt thành lời.
Khi xem xét từ bên ngoài, Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới tạo nên điều mà chúng ta vẫn thường hình dung như là “nhân cách” hoặc “cá tính” của một con người. Khi xem xét từ bên trong, hệ thống này dường như “chỉ là cách thức mà qua đó các sự vật và bản thân ta đang tồn tại” (just the way things are and the way I am). Hệ thống ấy tự nó rất trong suốt và có chức năng như một lăng kính sàng lọc một số điều này và tập trung vào một số điều khác. Chính lăng kính ấy cũng có thể bóp méo nhận thức của chúng ta.
Những thực tại hiện hữu (existential “givens”)
Sẽ hữu ích khi chúng ta nhận thấy rằng cuộc sống mang đến cho tất cả chúng ta những điều kiện nhất định để tồn tại và để đáp ứng, mặc dù chúng ta có thể “rộng đường” thay đổi những cách thức đáp ứng này. Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới là một mô hình vận hành thường xuyên những đáp ứng này. Hoặc, khi nhìn từ một góc độ khác, đó là cách thức chính yếu để chúng ta đương đầu với những lo âu, theo đuổi những lợi ích và thiết lập những giới hạn cho chính sự tồn tại của mình.
Các tác giả theo xu hướng hiện sinh đã trình bày nhiều khía cạnh cơ bản trong cuộc sống của chúng ta, ở đây chúng ta chỉ xem xét đến 6 “yếu tố thực tại” của việc “làm người” (six “givens” of being human):
Sự nhận biết (awareness)
Khả năng cơ bản nhất trong tất cả các khả năng trong cuộc sống của chúng ta đó là khả năng chú ý đến cả những gì “ngoài kia” (out there) và những gì “trong này” (in here). Từ chõ nhận biết này mà phát sinh nên ý thức của chúng ta, khả năng nhận biết được ta đang nhận biết (awareness of being aware), mà điều này khiến cho cuọc sống con người có sự khác biệt về chất lượng (trong chừng mực những gì chúng ta biết được) so với các chủng loại khác trên hành tinh này. Do bởi ta nhận biết được ta đang tồn tại, do bởi ta nhìn thấy được những tác động của ta lên những gì ở xung quanh ta, do bởi ta có thể phản ánh được những gì ta đã trải nghiệm, cho nên cuộc sống của con người được tách biệt ra khỏi những trạng thái hiện hữu “phi ý thức” của những đồ vật, cây cỏ và muôn thú. Chúng ta thật sự không thể sống một cách vô tư vì chúng ta luôn luôn phải để lại những dấu ấn trong đời. (Nguyên văn: “We can never be truly innocent; we leave spoor wherever we pass” nghĩa là “Chúng ta không bao giờ thực sự là vô can; chúng ta để lại mùi bất cứ nơi nào mình đi qua”)
Sự hiện thân (embodiedness)
Thân thể hữu hình của chúng ta luôn chú tâm cả ngày lẫn đêm, tạo điều kiện và thiết lập giới hạn, nhắc nhở và điều khiển chúng ta. Những lập luận từ các học thuyết Nhị nguyên, Nhất nguyên hoặc Thuyết Tương tác... đều rất lý thú, nhưng tất cả đều không phản bác được sự hiện thân sống động liên tục của sự tồn tại.
Thân thể của chúng ta dạy cho chúng ta rằng chúng ta là những “tiến trình” (processes) chứ không phải là những “cấu trúc” kiên định (fixed structures). Sự thay đổi liên tục của thân thể chúng ta là một ẩn dụ, một ví dụ và là một sự thật mà chúng ta có lẽ đã cố làm ngơ hoặc chối bỏ, nhưng sau cùng đó vẫn là thực tại của chúng ta. Sung sướng hay đau khổ cũng đều là những “giọng nói” của thân xác chúng ta; chúng là những giới hạn ở hai cực của một chuỗi vô số những trạng thái cảm xúc của chúng ta.
Tính hữu hạn (Finitude)
Trong bất cứu lĩnh vực nào chúng ta cũng chỉ có thể có một hiểu biết giới hạn, mặc dù chúng ta hiếm khi thực sự cảm nhận rõ điều này trong trải nghiệm chủ quan của chúng ta. Mặc dù sự thật rõ ràng là tất cả chúng ta đều phải chết, rằng chúng ta không thể làm được bất cứ điều gì mà mình đã lựa chọn, rằng có cả một đại dương mênh mông của những kiến thức vây quanh cái hòn đảo hiểu biết nhỏ bé của chúng ta... nhưng những xung lực bên trong vẫn thúc đẩy chúng ta đạt đến sự toàn hảo, để có được tất cả, biết được tất cả... và đó cũng là một thuộc tính cố hữu của chúng ta khi chúng ta đáp ứng lại với khả năng giới hạn của chúng ta. Vì bởi khả năng chúng ta hữu hạn, nên ta lại chuyển điều đó trở thành một tác nhân kích thích chúng ta tăng trưởng, triển nở, phát minh và sáng tạo.
Khả năng hành động (Actonable)
Chúng ta là những diễn viên trong “vở kịch cuộc đời” (drama of being), chứ không đơn giản chỉ là những khán giả. Chúng ta có thể làm hoặc tránh không làm; và quan trọng là ở chỗ chúng ta làm điều gì và không làm điều gì. Chính vì thế mà chúng ta có trách nhiệm. Từ mỗi hành động (kể cả những khi không hành động) tạo nên những đợt sóng hệ quả có thể lan rộng ra xa. Do khả năng hữu hạn, chúng ta không thể dự kiến được tất cả những gì có thể xảy ra, nhưng chúng ta vẫn phải “đánh cược” (we must place our bets). Và những gì chúng ta đang đặt cược vào chính là cuộc sống của chúng ta.
Tính tự chủ (Autonomy)
Để đương đầu với sự trống trải của cuộc sống, chúng ta hay đòi hỏi những dấu hiệu, những chỉ báo, hoặc những manh mối để biết được cách thức đảm nhận những việc mình có thể thực hiện sao cho có thể đạt khả năng thành công cao nhất, hoặc chí ít cũng có thể hạn chế đến mức thấp nhất những thất bại và phiền nhiễu. Có nhiều yếu tố được liệt kê ở đây như những thứ mà con người có thể lựa chọn để đáp ứng cho nhu cầu này: những con người, đức tin, các hóa chất, những nghi thức, những triết lý, những thương nhân, người diễn trò, những tổ chức thương mại... tất cả đều cuốn hút sự chú tâm của chúng ta.
Nhưng chẳng có thứ nào trên đây thỏa nhu cầu trong mọi trường hợp; và vì thế chúng ta vẫn tiếp tục phải “đánh cược” mà chẳng bao giờ có thể chắc chắn được kết quả sau cùng của những nỗi khao khát.
Tất cả nằm ở chỗ sự tự do của chúng ta. Trong hoàn cảnh bấp bênh, chắc chắn sẽ có những nỗi lo âu, nhưng cũng chính từ đó mà hình thành nên tính tự lập, tính sáng tạo, bản sắc cá nhân và đời sống cảm xúc của tất cả chúng ta. Đó chính là nguồn lực trong mỗi đời người để giúp người ấy sau cùng làm nên sự hiện hữu.
Tách biệt nhưng vẫn liên hệ (separate but related)
Mỗi người trong chúng ta đều ngụ cư trong cái thế giới riêng tư chủ quan của chính mình. Khi cố gắng làm những điều mình muốn, con người có thể không biết được điều gì xảy ra bên trong nội tâm của một người khác. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng có khả năng thiết lập các mối quan hệ với những người khác, gắn bó và nối kết với họ. Những trải nghiệm phong phú nhất trong cuộc đời của hầu hết mọi người chính là khi ta chia sẻ những trải nghiệm của mình với những người khác. Người yêu, vợ chồng, gia đình, bè bạn, người đồng hành, các đối tác, đồng chí... là vô số những con người mà ta có thể thực hiện được những kết nối. Có thể nói rằng một con người chỉ có thể hiểu biết được về bản thân mình khi đang cố gắng làm tròn một việc gì đó, thông qua sự gắn kết sâu đậm với ít nhất là một người khác.
Phản kháng và phòng vệ (Resistance and Defenses)
Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới của một con người chính là cuộc sống của người ấy – hoặc ít nhất là kế hoạch hoặc khuôn mẫu cho cuộc sống của người ấy. Nếu theo thời gian, hệ thống đó mang lại cho người ấy sự hài lòng và ít có điều phiền muộn, thì chắc chắn nó sẽ có khuynh hướng được duy trì và được bảo vệ chống lại bất cứ cố gắng nào làm thay đổi nó.
Có một điều ít được thấy rõ đó là ngay cả khi hệ thống ấy không còn hoạt động hiệu quả, thì đương sự vẫn có thể cứ duy trì và bảo vệ nó. Vì thế nhiệm vụ của tâm lý trị liệu chiều sâu (depth psychotherapy) là phải tìm cách giúp cho thân chủ tạo nên những thay đổi lâu dài cho cuộc sống. Điều quan trọng cũng nằm ở chỗ những nhà tâm lý trị liệu có thiện chí cũng có thể không hoàn toàn hiểu thấu được khiến cho, bằng cách không chủ ý, họ tự làm cho công việc của họ thêm phần khó khăn hơn.
Để có thể thay đổi cách thức sống và quan điểm sống của chính mình, con người phải xem xét và duyệt lại cái mảnh đất đặc thù nơi mình đang đứng. Không hề có một không gian trung dung (neutral space) nào để chúng ta có thể lui về rồi vô tư xem xét những gì là tốt và những gì là xấu trong cuộc đời mình, tìm xem những gì đang tác động lên cuộc sống chúng ta, hoặc để xem xét lại cách thức mà chúng ta đã đánh giá về những ưu, khuyết điểm của mình. Tất cả những cố gắng ấy đòi hỏi một điều rằng chủ thể đang được khảo sát ấy phải đồng thời vừa là khung tham chiếu vừa là nội dung của cuộc khảo sát; nó cũng tương tự như (tuy không đơn giản như thế) việc một người dùng bàn tay phải điều chỉnh chiếc máy chụp X quang đê ghi hình cho bàn tay trái của mình.
Hai thuật ngữ rất thông dụng trong tâm lý trị liệu, “phản kháng” và “phòng vệ”, vì thế được xem như hai mặt của một tiến trình: sự duy trì hệ thống Ngã-và-Thế giới, một cơ cấu độc đáo trong cuộc sống mà thân chủ cảm thấy là rất thiết yếu cho sự hiện hữu của bản thân mình. Trước tiên, không có cách nào để cho thân chủ có thể có được một nhãn quan mới dựa trên hệ thống Ngã-và-Thế giới của chính anh ta.
Những nhà trị liệu nào nhầm lẫn về sự phản kháng khi khảo sát cách thức sống của thân chủ với một vị trí đối nghịch với họ thì sẽ có thể làm xáo trộn tiến trình trị liệu và có thể sẽ kết thúc trị liệu như là một “đối thủ” của thân chủ thay vì như là một “đồng minh” của họ.
Tìm kiếm (Searching)
Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn công việc trị liệu nếu giờ đây chúng ta quay trở lại bàn luận về những khả năng của con người, những khả năng mà thường vẫn ít được thừa nhận và đánh giá cao nhưng lại rất thiết yếu đối với cuộc sống và là trung tâm của các liệu pháp tâm lý theo xu hướng nhân văn – hiện sinh.
Con người có hai chương trình thiết yếu cho cuộc sống đã được “cài đặt sẵn” như sau: Đó là Tìm kiếm (searching) và Học tập (learning). Nói một cách đơn giản thì học tập là khả năng mà chúng ta huy động đến khi phải đối đầu với những tình huống mà chúng ta phải thực hành những phương thức đáp ứng. Tìm kiếm là một tiến trình có tính bổ trợ; đó chính là điều chúng ta làm khi không có sẵn những con đường đã định để đương đầu với những tình huống quan trọng đối với chúng ta.
Việc tìm kiếm liên quan đến sự mở lòng chấp nhận những rủi ro đối với những gì chưa được hiểu rõ, khám phá những khả năng, thử nghiệm những gì xem ra là có thể, sử dụng những cách thức thay thế khi hoàn cảnh bị bế tắc và sau cùng là giải quyết được tình huống.
Khả năng tìm kiếm không phải là một sự phát minh hoặc khám phá trong định hướng trị liệu hiện tại. Nó đã được áp dụng qua suốt tiến trình lịch sử loài người, nhưng chính là khi xuất hiện tâm lý trị liệu, nó trở thành lĩnh vực tự nhận biết bản thân, được gọi tên và được chú ý đến nhiều hơn. Tìm kiếm (searching) là một thuật ngữ được sử dụng trong tâm lý học Mỹ và cũng có phần tương tự với những phương thức khác có tác dụng dẫn đường vào nguồn sức mạnh tương tự ở con người như liên tưởng tự do (free association) trong phân tâm học, sự “bộc lộ” (unfolding) của Buber (được công nhận bởi Welwood, 1982) và “tập trung tiêu điểm” (focusing) của Gendlin (1978).
Vấn đề chẩn đoán và các thể loại nhân cách
Từ những gì đã được mô tả từ đầu cho đến giờ, quan điểm nhân văn – hiện sinh rõ ràng là ít có những nhu cầu về chẩn đoán theo như thông lệ, ví dụ như xem xét các tiêu chí chẩn đoán của DSM-IV hoặc chẩn đoán các thể loại nhân cách. Phần nhiều các ứng dụng chẩn đoán trong tâm lý học và tâm thần học đã xem nhân cách và các tiêu chí chẩn đoán như thể chúng là những cấu trúc. Trong khi đó, xu hướng nhân văn – hiện sinh xem con người như những tiến trình diễn tiến liên tục. Các tác giả của xu hướng này không phủ nhận việc những khuôn mẫu hành vi, cảm xúc và quan hệ vẫn có thể được quan sát thấy. Tuy nhiên, các thể loại được sử dụng để xác định các khuôn mẫu này thì quá chung chung và mơ hồ khiến chúng thường làm cho việc hiểu biết một con người cụ thể càng thêm khó khăn chứ không được rõ ràng. Cách phân chia con người thành những thể loại có thể sử dụng ngắn gọn trong việc qản lý, nhưng thường làm cho việc hiểu biết tình trạng hiện hữu của từng cá nhân trở nên mơ hồ và vì thế làm trở ngại cho công việc thực hiện tâm lý trị liệu chiều sâu.
Quan điểm nhân văn – hiện sinh không làm việc dựa trên sự “dán nhãn” hoặc “cho một mã số” lên trên một thân chủ. Mỗi thân chủ được xem như một trường hợp độc đáo; mỗi người phải được tiếp cận bằng một thái độ rộng mở để được khám phá.
YẾU TỐ BÌNH PHỤC
Marcel Proust đã viết: “Cuộc hành trình khám phá thực sự không chỉ bao gồm việc nhìn thấy những lãnh địa mới mà còn phải có những tầm nhìn mới”. Sự thay đổi cơ bản nhất trong tất cả các trải nghiệm của con người đó là sự thay đổi về mặt nhận thức. Khi xem xét những tình huống sống quen thuộc bằng cái nhìn mới mẻ, chúng ta có thể nhìn thấy những khả năng mà trước đó có thể không nhìn thấy được. Nhiệm vụ trung tâm của tâm lý trị liệu là giúp cho thân chủ khám phá được những cách thức mà lâu nay họ đã sử dụng để tự hạn chế tầm nhìn của mình đối với các lĩnh vực quan trọng trong cuộc sống. Khi đã đạt đến sự nhận biết này, sự thay đổi được xem là đã xảy ra. Đây chính là một thực tại đáng ngạc nhiên: Tiến trình nhận ra được cách thức mà chúng ta tự gây trở ngại cho sự nhận biết của bản thân mình đồng thời cũng chính là tiến trình khởi đầu cho việc làm giảm những trở ngại.
Để có được kết quả này, tức là để giải phóng năng lực nhận biết của thân chủ, thân chủ cần phải được giúp đỡ để có thể trở nên hiện hữu đầy đủ trong việc trị liệu. Hiện hữu nghĩa là tính chất của một con người có thể tiếp cận được và thể hiện được một cách cởi mở trong từng khoảnh khắc ở hiện tại. Đó là một chiều kích của sự trải nghiệm mà không hề có một điểm dừng sau cùng. Chúng ta luôn luôn ở một mức độ thể hiện ít hơn sự hiện hữu đầy đủ. Những cách thức mà chúng ta hạn chế sự hiện hữu của mình chính là cách thức mà chúng ta dùng để hạn chế khả năng nhận biết của chính mình, nhưng (điều này cũng là điểm tối quan trọng) chúng cũng chính là những cách thức mà chúng ta tạo nên cuộc sống và ý nghĩa cuộc sống.
Vì thế, khi nhà trị liệu làm việc với thân chủ để giúp thân chủ giảm bớt những sự giới hạn khả năng của mình (những “phản kháng”) thì công việc đó có thể được thân chủ trải nghiệm như là một mối đe dọa đối với cuộc sống của mình. Điều này được trải nghiệm “đúng” ở chỗ cách thức sống của thân chủ trong thế gian này phải được thay đổi, nhưng “không đúng” ở chỗ thân chủ cảm nhận có thể gặp nguy hiểm vì bản thân mình có thể bị hủy hoại.
Cũng giống như một loại khả năng “nội thị” (insight), nó có thể trở thành yếu tố then chốt giúp tạo nên sự thay đổi có tính trị liệu. Nhưng đây không phải là loại “nội thị” được cung cấp bởi sự diễn giải của một nhà trị liệu phân tâm hoặc do thân chủ giải bày qua vài lời nói có tính vắn tắt (Ý nói về “liên tưởng tự do” – Người dịch).
“Cái nhìn từ bên trong” (inner vision) là một thuật ngữ chỉ sự thấu hiểu các tiến trình chủ quan bên trong con người, trên nhiều bình diện, nhiều ý nghĩa, về nhận thức cũng như cảm xúc, cả trên sự nhận biết trước khi dùng lời và ngoài việc dùng lời. Cái nhìn từ bên trong thường có tính chất man mác, lan tỏa, chỉ có thể nắm bắt và diễn tả bằng lời một phần nào đó. Tuy nhiên, nếu được trải nghiệm một cách thục sự, con người đó có thể ít nhiều được thay đổi sau đó.
Dĩ nhiên, việc xuất hiện của một cái nhìn bên trong như thế không phải là điểm dừng sau cùng, cũng không phải là sự “lành bệnh” mà thân chủ ban đầu đã tìm kiếm; nó cũng không đủ để tạo nên sự thay đổi có tính lâu dài. Chính tiến trình “khơi thông” (working-through) trong đó thân chủ nhận ra được những cách thức tự hạn chế sự nhận biết của mình mới có vai trò thiết yếu cho những thay đổi lâu dài.
Nhà trị liệu nhân văn – hiện sinh không cố gắng thực hiện việc diễn giải để trực tiếp tạo nên cái nhìn từ bên trong này. Tuy nhiên, nhà trị liệu thường “thách thức” (confront) thân chủ đối diện với thực tế rằng họ đã hạn chế khả năng nhận biết của mình, đối diện với những nhu cầu của bản thân thân chủ muốn tự hạn chế mình và những gì mà họ phải “trả giá” khi duy trì tình trạng gới hạn này.
Việc trị liệu tập trung quanh việc thân chủ hiện hữu như thế nào trong cuộc sống. Điều này có nghĩa là xem xét thái độ của thân chủ đối với thực tế cuộc sống của họ, đối với hướng đi của cuộc đời họ, đối với mức độ mà thân chủ cảm thấy có thể mang lại sự thay đổi cho cuộc sống của mình, đối với những mối quan hệ và các hoạt động xảy ra trong cuộc sống của mình và đối với nhãn quan của thân chủ về cuộc sống, cả về những ý nghĩa chung nhất lẫn những ý nghĩa tức thời. Nói đến việc thân chủ hiện hữu “như thế nào” trong cuộc sống tức là nói về khả năng của người ấy có thể rộng mở, biết chấp nhận và trân trọng những gì đang còn tiềm ẩn chưa được nhận biết bên trong bản thân con người của mình.
Điều chủ yếu cần được quan sát có liên quan đến chủ đề trung tâm này chính là sự hiện hữu của thân chủ trong tiến trình trị liệu và việc thân chủ có sử dụng những cơ hội có tính trị liệu của họ hay không. Sự hiện hữu là một trạng thái thuộc về trải nghiệm mà mọi người có thể nhận biết được, ít nhất là ở mức độ tiềm ẩn, tuy nhiên nó lại thường bị bỏ qua. Để dễ hiểu hơn có lẽ ta sẽ nhận diện được sự hiện hữu bằng cách nêu ra những gì không phải là hiện hữu. Hiện hữu không phải là nói chuyện về vấn đề của thân chủ, bàn luận về những suy nghĩ và hành vi của thân chủ. Hiện hữu không phải là thiết lập mối quan hệ phù hợp hoặc bàn luận và đáp ứng với những chủ đề quan trọng trong đời sống của thân chủ. Hiện hữu một thái độ chú tâm, dấn thân và sẵn lòng đối mặt với các nguy cơ. Khi cả thân chủ và nhà trị liệu cùng hiện hữu đối với sự trải nghiệm chủ quan của thân chủ, lúc đó một năng lượng mạnh mẽ sẽ được phóng thích ra từ đó có thể dẫn đến việc gia tăng khả năng nhận biết sự tồn tại (“aware being”) của bản thân thân chủ.
Trong phần trên, chúng ta đã nhấn mạnh vào sự hiện hữu của cả thân chủ và nhà trị liệu. Tâm lý trị liệu, được nói đến ở đây, không phải là “một điều gì đó được làm cho thân chủ”; mà nó chính là “một thành quả của sự hợp sức từ hai đối tác cùng tham gia vào” (an achievement of the partnership of the two so engaged).
Ý nghĩa rõ rệt của điều này là ở chỗ: trạng thái lành mạnh về tâm thần và cảm xúc của nhà trị liệu là một biến số (variable) có tính thiết yếu trong quá trình trị liệu. Điều này không có ý nói rằng nhà trị liệu phải “làm sạch” hoặc hoàn toàn tự do không lệ thuộc vào các vấn đề cảm xúc. Nó cũng không có nghĩa là khi nhà trị liệu đạt đến mức độ thực sự hiện hữu trong việc tham gia vào mối quan hệ với thân chủ thì những cố gắng của ông ta sẽ đạt được đến mức tối ưu.
Có một số phương pháp trị liệu đả thể hiện tính chất đặc trưng như sau: “chẳng làm gì cả, ngoài việc hiện diện cùng với thân chủ” (nothing, but just being with the client). Đây là một sự đơn giản hóa rất ngờ nghệch và có thể gây nguy hiểm. Để có thể hiện diện một cách hài hòa với một người khác thì phải vận dụng tối đa cả sự nỗ lực của từng cá nhân lẫn sự nỗ lực hợp sức của hai con người. Như đã mô tả ở phần trên, một số người có thể hình dung về sự hiện hữu “đơn giản chỉ là ở cùng với” thân chủ. Khi thái độ có tính qua loa này chiếm ưu thế, lúc đó nhà trị liệu thường sẽ quan tâm nhiều hơn đến yếu tố kỹ thuật thay vì là chú tâm đến sự hiện hữu. Kết quả là công việc trị liệu sẽ bị hạn chế mà điều này không được nhà trị liệu nhận biết. Nói cách khác, việc nhà trị liệu bận tâm nhiều đến các kỹ thuật có thể là cách nhà trị liệu kháng cự lại với việc hiện hữu một cách trung thực với thân chủ của mình.
Sự thành công trong tâm lý trị liệu phụ thuộc vào “độ hội tụ” (convergence) của sự hiện hữu từ cả thân chủ lẫn nhà trị liệu. Để việc này có thể xảy ra, những mối bận tâm về cuộc sống của thân chủ phải được “huy động”. Thật hữu ích khi ta suy nghĩ về những nỗi bận tâm của thân chủ theo bốn khía cạnh sau: (1) Những đau khổ, stress, lo âu và một số dạng thức phiền muộn khác; (2) Hy vọng, khao khát tìm kiếm một trải nghiệm sống khác; (3) Sẵn sàng dấn thân một cách đầy đủ - về thời gian, tiền bạc, tình cảm và sự nỗ lực; và (4) Chấp nhận nhu cầu cần phải chú ý đến nội tâm bên trong để mang lại những đổi thay mong muốn.
Trong một mối liên minh trị liệu hiệu quả (effective therapeutic alliance), những bận tâm của thân chủ sẽ được đáp ứng và được hỗ trợ bởi mối bận tâm tương ứng của nhà trị liệu – mối bận tâm này cũng được thể hiện trên bốn phương diện như sau: (1) Công việc trị liệu phải tương ứng với nhu cầu thể hiện tính hài hòa (genuine need) của nhà trị liệu; (2) Nhà trị liệu đạt đến một tầm nhìn (vision) để thấy được sự lành mạnh tiềm ẩn bên trong thân chủ; (3) Nhà trị liệu được chuẩn bị để sẵn sàng hiện hữu ngay cả trước khi thân chủ đạt được trạng thái này; và (4) Nhà trị liệu cần phải học cách tin tưởng, bảo vệ và sử dụng tính nhạy cảm sâu sắc của mình (deep sensitivity).
Sự “hội tụ” những mối bận tâm từ thân chủ và nhà trị liệu (tuy không bao giờ toàn hảo, nhưng thường vẫn mỗi lúc một phát triển thêm) có thể ung đúc nên một sức mạnh to lớn đủ để có thể vượt qua được những trở lực nặng nề của những năm tháng thân chủ sống với cái ngã xưa cũ gò bó, cứng nhắc, và cũng rất thường hay xảy ra là những trở lực từ những người khác xung quanh giữ thân chủ lại không cho người này thay đổi.
Khi mối liên minh trị liệu mang lại nguồn năng lượng mạnh mẽ này, có thể nói tâm lý trị liệu đã sử dụng đến một trong số những sức mạnh to lớn nhất trên thế gian này. Nếu cách trình bày này nghe có vẻ cực đoan, thì cũng xin nhắc lại rằng: tất cả mọi hình thái năng lượng khác như điện năng, lực hấp dẫn, lực cơ học, vv... đều được khai thác và điều khiển bởi những chủ tâm của con người.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét