09 tháng 10 2011

MưỜi nghiên cỨu quan trỌng trong tâm lý hỌc trẺ em
Người dịch: NGUYỄN THỊ THU TRÚC
Cử nhân tâm lý - Chi hội Trăng Non

Đây là 10 nghiên cứu kinh điển đã làm sáng tỏ những lĩnh vực trọng tâm về sự phát triển ở tuổi ấu thơ. Bao gồm các lĩnh vực: trí nhớ, ngôn ngữ, ý niệm bản ngã, nhận thức, khả năng mang tính xã hội và làm chủ cảm xúc. Mỗi lĩnh vực là một phần mảnh ghép về chính chúng ta, làm chúng ta nhớ lại, thông qua kiểm tra lại những phần đó, mà bây giờ chúng ta biết rằng nó đã một thời phức tạp như thế nào

  1. Trí nhớ của trẻ hoạt động từ rất sớm
  1. Khi hình ảnh Bản Ngã (The Self) xuất hiện: có phải mình trong gương không?
  1. Trẻ học biết trái đất không phẳng như thế nào
  1. Tình huống xa lạ: cửa sổ tâm hồn trên quá khứ và tương lại của đứa trẻ
  1. Trẻ bắt chước người khác từ khi mới vài tuần tuổi
  1. Khi trẻ bắt đầu phỏng đoán tâm ý của người khác
  1. Trẻ là nhà vật lý học nhạy cảm: sự bất biến của vật thể
  1. Trẻ bắt đầu cuộc hành trình đến lời nói đầu tiên như thế nào
  1. Sáu kiểu chơi: chúng ta học cách hợp tác với nhau như thế nào
  1. Lý thuyết về 4 giai đoạn phát triển nhận thức ở trẻ em của Jean Piaget: Trẻ em thu được kiến thức như thế nào
 1. Trí nhớ của trẻ hoạt động từ rất sớm
Thí nghiệm kinh điển của Giáo sư Carolyn Rovee và đồng sự vào những năm 60 thế kỷ 20 cung cấp cho chúng ta một cái nhìn thấu đáo về việc trẻ sơ sinh có thể nhớ cái gì. Phương pháp này cung cấp những bằng chứng tuyệt vời về sự phát triển trí nhớ ở trẻ sơ sinh bắt đầu khi nào và hoạt động như thế nào.
Trong thí nghiệm của Rovee (1969), những đứa trẻ từ 9-12 tuần tuổi được nằm thoải mái trong cái cũi của chúng tại nhà, chúng nhìn chăm chú vào món đồ chơi có dây nối những miếng gỗ nhiều màu sắc (the mobile) treo bên trên. Nếu đứa trẻ giãy đạp thì món đồ chơi sẽ đung đưa chuyển động. Và nếu chúng giãy đạp mạnh, những miếng gỗ sẽ va chạm nhau tạo âm thanh lách cách thú vị. Trẻ càng giãy đạp nhiều thì càng nhận được những kích thích từ món đồ chơi. Thí nghiệm muốn tìm hiểu liệu đứa trẻ có thể điều kiện hóa những cú giãy đạp của nó để làm đồ chơi chuyển động hay không. Nhà nghiên cứu đo cấp độ những cú đá của trẻ khi không có đồ chơi làm đường chuẩn (baseline), và sau đó so sánh nó với những cú đá mà có phản hồi thú vị từ món đồ chơi.
Rovee khám phá thấy ở những đứa trẻ 8 tuần tuổi đã có thể học cách kết hợp giữa sự giãy đạp của mình với sự chuyển động của món đồ chơi. Điều đã học tập này có thể còn tồn tại trong khoảng từ 45-55 phút. Sau đó, nghiên cứu còn dùng vật thay thế món đồ chơi ban đầu mà trẻ đã biết để xem liệu trẻ có thể nhận ra sự khác biệt đó, nhờ thế mà ta kiểm tra được trẻ có thể thực sự nhớ được hay không.
Nghiên cứu thực hiện trên những đứa trẻ chỉ 8 tuần tuổi, trẻ được chơi với đồ chơi trong 3 ngày, mỗi ngày chơi 9 phút. 24 giờ sau giai đoạn trên, những đứa trẻ chỉ đá bên trên mức đường chuẩn của chúng khi có món đồ chơi đúng như nó đã quen 3 ngày trước. Điều này cho thấy chúng nhớ được đặc điểm riêng của món đồ chơi mà chúng được chơi không như bất kỳ món đồ chơi nào khác. Khám phá này rất lý thú vì trước đó người ta cho rằng trí nhớ dài hạn (đối với những nhà tâm lý học, 24 giờ là dài hạn) không xuất hiện sau 8-9 tháng tuổi.
Những nghiên cứu tương tự cũng cho thấy hệ thống trí nhớ của chúng ta hoạt động từ rất sớm. Trí nhớ của trẻ em cũng hoạt động giống như cách trí nhớ của người lớn, chỉ có điều nó dễ bị mất đi.
2/ Khi hình ảnh Bản Ngã (The Self) xuất hiện: có phải mình trong gương không?
Cho đến nay bài kiểm tra với cái gương (mirror test) vẫn được cho là cách tốt nhất để kiểm nghiệm sự xuất hiện ý niệm bản ngã (self-concept) ở trẻ em.
Năm 1972, Beulah Amsterdam đã mở ra một thập niên nghiên cứu về nhận thức bản ngã (self-recognition). Phương pháp nghiên cứu khá đơn giản. Những đứa trẻ từ 6-24 tháng tuổi được đứng trước gương sau khi bị trét một vệt son đỏ trên mũi một cách bí mật. Mẹ của trẻ sẽ chỉ vào ảnh trên gương của trẻ và hỏi: ai đó?. Nhà nghiên cứu quan sát phản ứng của trẻ. Có 3 loại phản ứng:
+ Những đứa trẻ từ 6-12 tháng tuổi phản ứng như đó là một đứa trẻ khác trong gương mà chúng muốn kết thân. Chúng cười và xì xồ những âm thanh.
+ Những đứa trẻ từ 13-24 tháng tuổi phản ứng trốn tránh. Chúng trở nên cẩn trọng hơn, không còn vui vẻ một cách đặc biệt. Một số trẻ vẫn còn đôi khi cười với ảnh của mình trong gương. Hành vi của trẻ được một lời giải thích cho rằng đứa trẻ đang hành động một cách ý thức về bản thân (self-consciously), nhưng nó cũng được cho là cách phản ứng với một đứa trẻ khác.
+ Những đứa trẻ từ 20 đến trên 24 tháng tuổi nhận ra chính mình trong gương. Chúng chỉ vào vết son ở trên mũi của mình. Điều này cho thấy chúng nhận ra hình ảnh trong gương là chính mình.
Có ý kiến cho rằng đứa trẻ trong khoảng 2 tuổi phát triển ý niệm bản ngã vững chắc có tính thể lý hoặc hình ảnh (a solid physical or visual self-concept), và chỉ một ít ý niệm bản ngã về tinh thần (mental self-concept). Các nghiên cứu chỉ cho thấy rằng trẻ biết nó có hình ảnh như thế nào. Có thể, chúng ta chỉ phát triển ý niệm về bản ngã phải lâu sau đó.
Từ 2-4 tuổi trẻ bắt đầu phát triển nhanh chóng những hành vi có tính xã hội. Việc phân biệt bản thân với người khác là nền tảng hướng đế xây dựng mới quan hệ xã hội hơn là những tương tác đơn thuần. Dường như đứa trẻ không thể xây dựng mối quan hệ với người khác mà không có vài ý niệm giới hạn của bản thân chúng. Nhận thức về bản thân là chìa khóa để có thể bắt đầu tương giao với người khác. Với hiểu biết đó, trẻ bắt đầu bước chân vào thế giới xã hội loài người.
3/ Trẻ học biết trái đất không phẳng như thế nào
Nghiên cứu kinh điển về khả năng học tập trong tuổi ấu thơ cho rằng hiểu biết sự thật đến từ việc gỡ bỏ những kiến thức trước đó đã được thiết lập.
Có những khám phá vĩ đại của nhân loại như: con người có nguồn gốc từ loài vượn, trái đất hình cầu và xoay quanh mặt trời, con số có thể thay thế bằng các ký tự để giải quyết các vấn đề… Mặc dù tầm quan trọng của những phát kiến đó đều giúp ta hiểu mọi điều xung quanh chúng ta, thì so với hiện nay kiến thức đó có vẻ tương đối tầm thường, chúng ta có thể học chúng tại trường.
Nhưng quá trình trí óc đã hoạt động ra sao để đưa ta từ việc học vẹt đến hiểu biết thật sự kiến thức đó? Đứa trẻ xem xét lại điều chúng hiểu về thế giới như thế nào là một trong những lĩnh vực thú vị của ngành tâm lý học trẻ em.
Một nghiên cứu của Giáo sư Stella Vosniadou và William Brewer cung cấp một cái nhìn trọng tâm về việc chúng ta đã vươn đến những hiểu biết đúng sự thật như thế nào. Các ông sử dụng lý thuyết tâm lý nhận thức để gọi “mô hình trí óc” (mental models) mà chúng ta dùng để sáng tạo, sau đó kiểm nghiệm, những mô hình trí óc của những cách mà thế giới dùng để dựng nên những hiểu biết cho mình. Lý thuyết này cho rằng có thể có nhiều điểm trung gian (intermediate point) ở những chổ chúng ta nắm được khái niệm nào đó nhưng chưa thật sự hiểu nó. Những mô hình trí óc trung cấp (intermediate mental models) này được Vosniadou và Brewer nhìn nhận như là bằng chứng của sự hiểu biết đang tiến triển.
Nghiên cứu của Vosniadou và Brewer phỏng vấn 60 trẻ em từ 6-11 tuổi. Mỗi trẻ được hỏi 48 câu, bắt đầu từ những câu hỏi vô thưởng vô phạt như: “Trái đất hình gì?”, và sau đó tiếp tục với những câu hỏi có tính thăm dò được thiết kế để khám phá mô hình trí óc về cách hiểu hình dạng Trái đất mà đứa trẻ sử dụng.
Hầu hết các đứa trẻ đều khởi động bằng việc tái hiện trái đất hình tròn. Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu ta cứ đi hoài đi mãi, một số câu trả lời là bạn sẽ rơi ra ngoài, số khác đưa ra câu trả lời gây ngạc nhiên khi chúng nghĩ rằng Trái đất hình cầu. Một số vẫn nói là bạn sẽ rơi vào một hành tinh khác. Một số khác lại nói trái đất là vòng tròn mà chúng ta thì sống trên bề mặt phẳng của nó.
Câu trả lời ban đầu có vẻ khá tình cờ và bất nhất, như thể chúng mới nghĩ đại ra. Nhưng qua những câu hỏi sau thì những kiểu trả lời bắt đầu xuất hiện rõ ràng:
+ Trái đất hình chữ nhật: Trẻ nghĩ rằng Trái đất hình chữ nhật dẹt và chúng ta có thể rơi ra ngoài.
+ Trái đất hình đĩa: Trẻ nghĩ Trái đất là một cái đĩa dẹt và chúng ta cũng có thể rơi ra ngoài.
+ Trái đất 2 mặt: Trẻ nghĩ rằng có một Trái đất phẳng mà chúng ta đang đứng trên nó và một “Trái đất” nữa trên bầu trời hình vòng tròn. Câu trả lời của chúng cho thấy chứng thấy hành tinh này dẹt khi hỏi về “đất”, nhưng lại là hình vòng tròn khi hỏi về “Trái đất”.
+ Trái đất hình cầu rỗng: trẻ nghĩ rằng chúng ta sống bên trong Trái đất trên bề mặt phẳng
+ Trái đất hình cầu có mặt phẳng: Trẻ cho rằng Trái đất hình cầu có mặt phẳng mà con người sống ở trên những vùng trên đỉnh.
+ Trái đất hình cầu: Số trẻ có câu trả lời này tăng theo độ tuổi.
+ Mô hình trộn lẫn: Một số trẻ còn lại không đưa ra một câu trả lời chắc chắn nào, không một kiểu trí óc nào được cấu trúc phù hợp cho chúng.
Thực tế là có khoảng 4/5 số trẻ phù hợp ở những hạng được xác định rõ ràng mà có thể chỉ ra rằng chúng ta gần cấu trúc cùng kiểu mô hình trí óc giống những người khác, giống lẫn cái đúng và cả cái sai.
Sự hiểu biết đang tiến triển:
Kết quả cho thấy tâm trí làm việc từ khi những thuật ngữ còn là những khái niệm mới toanh, hoàn toàn xa lạ về cơ bản đối cảm giác. Những kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta cho rằng Trái đất phải là phẳng, tuy nhiên, khi lực hấp dẫn hút chúng ta xuống, tức là chúng ta đang trượt trên trái đất. Đây là mô hình hoạt động trí óc đầu tiên của cách hiểu về Trái đất. Sau đó chúng ta được dạy rằng Trái đất hình cầu và chúng ta cố gắng cập nhật cách hiểu đã có, nhưng khi nó xuất hiện, chúng ta trải qua giai đoạn bị kẹt ở giữa.
Đây gọi là mô hình trí óc trung gian, nơi là điểm để chúng ta cố gắng nhận những khái niệm mới bởi lần đầu tiên cố gắng thống hợp chúng trong cách hiểu hiện hành của mình. Mô hình Trái đất hình cầu rỗng và Trái đất hai mặt cho thấy trẻ đã thích ứng là ví dụ cho điều này. Cả hai cách đều là cố gắng giữ Trái đất vừa phẳng và vừa có dáng hình cầu.
Cái ngăn cản đứa trẻ học tập chính là những phỏng đoán đã có từ những kinh nghiệm hằng ngày của trẻ. Cho đến khi chúng chưa rời bỏ cách nhìn cũ về Trái đất, chúng không thể nắm bắt cách nhìn mới. Những phỏng đoán đã thiết lập từ kinh nghiệm cá nhân là nhân tố mạnh mẻ mà khó gỡ bõ, ngay cả khi có bằng chứng mâu thuẫn ngay trước mặt. Đôi khi, hiểu biết thật sự là gỡ bỏ cách hiểu cũ hơn là học những khái niệm mới.
4/ Tình huống xa lạ: cửa sổ tâm hồn trên quá khứ và tương lai của đứa trẻ
Chúng ta là động vật có tính xã hội, dựa vào nhiều ở khả năng của chúng ta trong các dạng mối quan hệ với người khác để giúp chúng ta thương lượng cách sống. Người có khó khăn trong các mối quan hệ thường không thể tham gia trong việc cho-và-nhận thường ngày. Họ có thể hay chống đối người khác, gặp nhiều vấn đề về giáo dục cũng như khả năng cao sẽ bị các rối loạn tâm thần trong tương lai.
Không lạ khi các nhà tâm lý học trẻ em quan tâm đến những mối quan hệ đầu tiên mà chúng ta xây dựng với những người chăm sóc ban đầu. Điều này giúp chứng minh sự ảnh hưởng quan trọng của các mối quan hệ đó lên trên các mối quan hệ được thiết lập trong tương lai, bao gồm mối quan hệ với người bạn đời, những người đồng nghiệp và với con cái chúng ta. Chúng ta không đổ thừa mọi sự cho cha mẹ mình, nhưng những mối quan hệ từ sớm thường trở thành khuôn mẫu chúng ta dùng trong cuộc sống sau này của mình.
Vì vậy sự phát triển của những mối quan hệ từ rất sớm – thường được gọi là “sự gắn bó”- cực kỳ quan trọng. Những nhà tâm lý học trẻ em nhận thấy thật hữu ích khi biết đừa trẻ gắn bó với cha mẹ của chúng như thế nào. Nhưng vấn đề là làm sao đo mức độ gắn bó? Một đứa trẻ 8 tháng tuổi không nói gì nhiều mà khó lòng tin tưởng vào những thông tin do cha mẹ cung cấp.
Nhà tâm lý học trẻ em nổi tiếng Mary Ainsworth và cộng sự đã đưa ra những tài liệu chuẩn để khám phá sự gắn bó cảm xúc giữa đứa trẻ và người chăm sóc (Ainsworth, Blehar, Waters & Wall, 1978). Đây được cho là thí nghiệm có sức mạnh nhất để nghiên cứu sự phát triển cảm xúc và tính xã hội của trẻ em.
Ainsworth sử dụng một trong những cảm xúc cơ bản nhất của con người chính là sự sợ hãi. Khi một em bé gắn bó với người chăm sóc nó, sau 6 tháng, nó bắt đầu xuất hiện nỗi sợ trong hai tình huống thường dễ lập đi lập lại như:
+ Sự lo lắng vì người lạ: đôi khi sau 6 tháng tuổi đứa trẻ thường bắt đầu sợ người lạ. Điều này càng đặc biệt hơn khi người chăm sóc của nó không có mặt lúc đó.
+ Phản kháng sự chia cắt: cùng khoảng thời gian đó, trẻ cũng có dấu hiệu buồn rầu khi người chăm sóc rời xa nó.
Để tìm hiểu đứa trẻ và người chăm sóc nó tương tác như thế nào, Ainsworth để lại một loạt những tương tác được thiết kế để kiểm tra đứa bé phản ứng nhưng thế nào trong khi lo lắng gặp người lạ và lo lắng bị chia cắt. Chuỗi hành động được chỉ đạo cẩn thận, mỗi cảnh không quá 3 phút:
1. Một nhà nghiên cứu ra ngoài sau khi đưa người chăm sóc và đứa trẻ vào phòng nghiên cứu.
2. Người chăm sóc không làm gì cả trong khi đứa trẻ bộc lộ phản ứng.
3. Một người lạ vào, không nói gì trong một phút, và sau đó nói chuyện với người chăm sóc. Sau đó, không quá một phút, người lạ tiếp cận đứa trẻ.
4. Người chăm sóc rời phòng một cách kín đáo nhất có thể và để đứa trẻ với người lạ ở lại phòng.
5. Người chăm sóc quay trở lại để trấn an đứa trẻ và sau đó lại rời đi.
6. Đứa trẻ bị ở lại trong phòng một mình.
7. Người lạ vào phòng và bắt đầu tương tác với đứa trẻ.
8. Người chăm sóc quay vào phòng và người lạ đi khỏi đó.
 Tình huống xa lạ được thiết kế là để tạo sự xa lạ cho đứa trẻ cảm nhận. Cần bắt đầu bằng một cái phòng không quen thuộc với trẻ, sau đó một người lạ bước vào, nói chuyện với nó, rồi cả người lạ vào người chăm sóc cùng mất tích. Mỗi tình huống gây stress tăng dần.
 Phân tích kết quả sau khi lập lại thí nghiệm trên nhiều đứa trẻ, Ainsworth khám phá ra điều lý thú trong các dữ liệu. Nó cho thấy những khía cạnh tương tác có thể quan sát được đứa trẻ phản ứng như thế nào khi người chăm sóc quay trở lại. Phân tích phản ứng của đứa trẻ khi mẹ nó quay trở lại cho thấy sự khác biệt giữa ba kiểu chia cắt trong sự gắn bó, một loại tốt và hai loại được cho là có kiểu rối loạn gắn bó (disorder attachment style):
+ Gắn bó một cách an toàn: đứa trẻ được cho là có gắn bó an toàn sẽ có lý do để buồn sầu khi người chăm sóc nó rời bỏ và sẽ tỏ ra vui thích khi người đó quay lại và sẽ dịu đi sự đau buồn nhanh hơn. Nghiên cứu phổ quát có khoảng 70% đứa trẻ rơi vào trường hợp này.
+ Sự gắn bó không an toàn/tránh né: Những đứa trẻ kém thân thiết với người chăm sóc, mặc dù chúng khóc khi học rời khỏi phòng. Nhưng lạ thay, chúng cũng không thoải mái khi người chăm sóc quay lại, chúng thường quay lưng với người chăm sóc chúng và tránh xa họ. Khoảng có 20% trẻ rơi vào trường hợp này.
+ Sự gắn bó không an toàn/chống cự: Những đứa trẻ không muốn rời bỏ người chăm sóc chúng để khám phá cái phòng. Sau đó, giống như kiểu thiếu an toàn và tránh né, chúng khóc khi người chăm sóc rời bỏ, nhưng lại chống đối khi người chăm sóc quay lại và có ý an ủi chúng. Chúng tỏ ra giận dữ. Khoảng 10% đứa trẻ rơi vào trường hợp này.
Nghiên cứu sau đó cũng xác định kiểu gắn bó không an toàn sâu hơn:
+ Sự gắn bó không an toàn/phá rối: những đứa trẻ thường hay sợ và từ chối người chăm sóc. Những trẻ này thường chịu sự căng thẳng quá mức. Kiểu gắn bó này thường là do người chăm sóc bị phiền muộn hoặc đứa trẻ bị lạm dụng, ngược đãi.
 Nguyên nhân của các kiểu gắn bó:
Phần lớn những nghiên cứu kiểm nghiệm những yếu tố nguyên nhân dẫn đến đứa trẻ gắn bó trong những cách khác nhau, thường nhấn mạnh vào cách mà người chăm sóc đối xử với trẻ. Những gắn bó an toàn được sự phối hợp từ những người chăm sóc có (Papalia & Olds, 1977):
+ Sự nhạy cảm và sẵn lòng đáp ứng với đứa trẻ
+ Luôn khuyến khích tương giao hai chiều với đứa trẻ
+ Ấm áp và chấp nhận đứa trẻ
Những điều trái với các yếu tố trên một cách rõ ràng sẽ gây ra các kiểu gắn bó không an toàn. Một vài nghiên cứu cũng cho thấy tính khí của đứa trẻ cũng là yếu tố quan trọng.
 Tầm quan trọng của các kiểu gắn bó:
Một số nhà nghiên cứu cho rằng kiểu gắn bó có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng xã hội, cảm xúc và nhận thức. Một số cho rằng đứa trẻ càng gắn bó tốt với người chăm sóc chúng thì chúng càng dễ có khả năng sống độc lập sau này. Những lợi ích thừ sự gắn bó an toàn bao gồm (Papalia & Olds, 1977):
+ Tự tin hơn
+ Nhiều bạn hơn
+ Nhiều mối quan hệ trưởng thành tốt đẹp hơn
 Có nghĩa là trẻ có sự gắn bó không an toàn thường có xu hướng:
+ Tỏ ra nhiều cảm xúc tiêu cực hơn
+ Có vấn đề về hành vi
+ Thường chống đối với các trẻ khác
Mở cửa cho tương lai
Các nhà phê bình nghiên cứu “tình huống xa lạ” cho rằng:
+ Tại sao người chăm sóc phải chịu đựng một cách đặc biệt tương giao với đứa trẻ?
+ Đứa trẻ có thể thật sự theo kịp những cảnh đến và đi trong suốt nghiên cứu?
+ Điều được rút ra có giá trị trong các nền văn hóa khác nhau không?
Nghiên cứu này cung cấp một cách kiểm nghiệm chuẩn xác những dạng quan hệ sớm giữa chúng ta với người chăm sóc mình. Nó tiết lộ câu trả lời cho bốn câu hỏi lớn mà đứa trẻ đặt ra về những tương giao xã hội và cảm xúc của chúng:
+ Tôi có mối quan hệ tốt đẹp với người khác như thế nào?
+ Điều gì xảy ra khi tôi khám phá môi trường xung quanh?
+ Tôi có thể đạt được điều gì?
+ Người ta làm gì khi tôi tỏ ra không vui?
Cách mà đứa trẻ gắn bó cho ta manh mối để trả lời những câu hỏi này và mở cánh cửa tương lai và quá khứ của chúng.
 5/ Trẻ bắt chước người khác từ khi mới vài tuần tuổi:
Một trong những hành vi mang tính xã hội cơ bàn quan trọng đó là biết bắt chước người khác. Mặc dù việc bắt chước được người lớn thừa nhận nhưng nó cũng cần sự nổ lực từ phía dứa trẻ.
Yếu tố trọng tâm của việc bắt chước là hiểu rõ sự khác biệt giữa bản thân và người khác. Nhà tâm lý học trẻ em lỗi lạc Jean Piaget cho rằng điều này chỉ xảy ra khi trẻ được 8-12 tháng tuổi, lúc đó nó mới biết bắt chước.
Năm 1977, Nghiên cứu của Andrew Meltzoff và M. Keith Moore đặt lại câu hỏi cho lý thuyết của Piaget và trở thành nghiên cứu kinh điển trong tâm lý học trẻ em.
Nghiên cứu khá dễ dàng. Một nhà nghiên cứu ngồi trước mặt những đứa trẻ sơ sinh khoảng 12-21 ngày tuổi. Người này thè lưỡi ra, mở miệng, mím môi và di chuyển những ngón tay, sau đó quan sát những phản ứng của đước trẻ với khuôn mặt trơ. Kết quả gần như chắc rằng những đứa trẻ đã bắt chước hành vi của người này.
Vấn đề chính được nêu lên, liệu những đứa trẻ đó thật sự bắt chước nhà nghiên cứu hay là chỉ thè lưỡi, há miệng vì một lý do nào khác. Nói cách khác: có thật là việc bắt chước hay một cái gì đó căn cơ hơn không thể được cho là tương tác xã hội?
Nghiên cứu này là phần bất lợi cho những ai cho rằng đứa trẻ sinh ra trong thế giới được “cài đặt” sẵn một phần những tương giao xã hội. Từ rất sớm, đứa trẻ đã làm chủ được thân thể của mình và bắt chước người khác
6/ Khi trẻ bắt đầu phỏng đoán tâm ý của người khác
Các nhà tâm lý học gọi khả năng phỏng đoán hay tìm lời đáp bằng suy nghĩ được gọi là “lý thuyết của tâm trí” (Theory of Mind - TOM). Sự xuất hiện của lý thuyết của tâm trí ở trẻ em là cột mốc phát triển quan trọng; một vài nhà tâm lý học cho rằng việc bị lỗi trong sự phát triển TOM là yếu tốt chính của bệnh tự kỷ.
Nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng về hoạt động của TOM trong kiểm nghiệm niềm tin sai lạc của Heinz Wimmer và Josef Perner năm 1983. Đề kiểm tra sự xuất hiện của TOM, nhà nghiên cứu tìm hiểu liệu đứa trẻ có thể vượt qua một niềm tin sai lạc. Đề vượt qua bài kiểm tra, đứa trẻ phải hiểu điều gì là có thể ở người khác, có thể sẽ khác với chính nó.
Wimmer và Perner kiểm nghiệm trên những đứa trẻ từ 3-9 tuổi, nói với chúng câu chuyện về cậu bé Maxi có mẹ mua sô cô la để làm bánh. Khi mẹ về, Maxi thấy mẹ để sôcôla trong chạn tủ xanh dương. Sau đó Maxi ra ngoài chơi. Trong lúc đó, mẹ dùng sôcôla để làm bánh lại bỏ chúng vào chạn tủ khác màu xanh lá. Khi Maxi trở vào nhà, nó thấy đói và muốn có sôcôla ăn. Những đứa trẻ phải trả lời câu hỏi: chạn tủ nào Maxi sẽ tìm sôcôla?
Kết quả cho thấy những đứa trẻ 3-4 tuổi thương trả lời sai khi chỉ nơi thực tế có sô cô la hơn là nơi mà Maxi có thể nghĩ. Wimmer và Perner cho rằng có điều này xảy ra vì chúng chưa cấu trúc mô hình trí óc tách biệt về thế giới để có thể hiểu kinh nghiệm của Maxi – chúng chưa có khả năng của TOM.
Trẻ khoảng 4-5 tuổi thì có sự thay đổi hơn. Chúng có xu hướng chọn cái chạn Maxi nghĩ hơn là cái chúng biết. Tuy nhiên, có những đứa trẻ trên 5 tuổi vẫn có vấn đề hiểu người khác.
Cuối cùng, trẻ 6 tuổi có thể có hiểu biết nhất quán rằng người khác có thể giữ những điều sai về thế giới.
Thí nghiệm này cho rằng trẻ từ 4-6 tuổi có một khả năng đáng lưu ý bắt đầu xuất hiện, hết sức quan trọng đối với sự thành công của trẻ trong xã hội. Chúng bắt đầu hiểu người khác có thể giữ điều sai, chúng có thể dối trá với bản thân và người khác có thể nói dối chúng. Điều này có thể là sự chấm dứt buồn bã cho tính ngây thơ, nhưng là một kỹ năng bắt buộc để thành công trong xã hội.
7/ Trẻ là nhà vật lý học nhạy cảm: sự bất biến của vật thể
 Sự bất biến của vật thể là hiểu rằng vật thể vẫn tiếp tục tồn tại dù chúng ta không thật sự thấy chúng. Nhà tâm lý học trẻ em Jean Piaget cho rằng trẻ không thể hiểu khái niệm này cho đến khi nó 12 tháng tuổi.
Ý tưởng đó bị thách thức bởi một loạt nghiên cứu của Giáo sự Renee Baillargeon và cộng sự. Những nghiên cứu dùng sự ngạc nhiên rõ ràng của đứa trẻ trong những sự kiện không thể xảy ra để cố gắng và tập luyện để hiểu sự bất biến của vật thể.
Trong nghiên cứu, những đứa trẻ khoảng 6 tháng tuổi rưỡi nhìn một chiếc xe đồ chơi chạy xuống bờ đốc. Nửa đường của hành trình nằm ở sau tấm màn chắn tầm mắt của đứa trẻ, trước khi xe xuất hiện ở đầu bên kia thì nó biến mất một lúc. Trong điều kiện khác, trẻ được thấy một cái khối đặt phía sau tấm màn chắn ngay chặng đường của chiếc xe. Một thủ thuật bí mật làm cho khối gỗ không chặn được chiếc xe. Khi xe được thả ra, nó chui qua cái khối và xuất hiện bên đầu bên kia. Đây là điều kiện không thể xảy ra được so sánh với điều kiện có thể xảy ra là cái khối được đặt gần, nhưng không đặt ngay trên đường đi của xe.
Baillargeon thấy rằng trẻ chăm chú lâu hơn vào cảnh có điều không thể xảy ra. Điều này cho rằng trẻ hiểu cái khối vẫn còn ở phía sau tấm màn dù nó không thấy. Nó cũng hiểu là xe không thể xuyên qua khối gỗ. Điều này có vẻ là bằng chứng hợp lý cho rằng trẻ hiểu được sự bất biến của vật thể.
Nghiên cứu cũng được thực hiện trên những đứa trẻ 3 tháng tuổi rưỡi, và có vẻ chúng cũng nắm được sự bất biến của vật thể. Sử dụng kết quả nghiên cứu của Baillargeon và cộng sự cho thấy trẻ nhỏ không bị bẫy trong thế giới nhiều hình dạng mà có ít ý nghĩa với chúng. Chúng dường như là những nhà vật lý nhạy cảm có những ý nghĩ còn thô sơ về những khái niệm vật lý như lực hấp dẫn, quán tính và sự bất biến của vật thể.
Có thể trẻ không nhìn thất giới như là một giấc mộng hoàn toàn vô lý. Chắc chắc, chúng phải học thêm nhiều điều đáng ngạc nhiên từ thế giới đó nhưng dường như chúng hiểu vài nền tảng về cách mà thế giới vận hành từ rất sớm.
8/ Trẻ bắt đầu cuộc hành trình đến lời nói đầu tiên như thế nào
Những bước đầu tiên của đứa trẻ trên cuộc hành trình đến lời nói đầu tiên có thể là điều gây ấn tượng của chúng nhất. Bước đầu tiên là phải phân biệt và phân loại các thành phần âm thanh cơ bản của ngôn ngữ mà chúng nghe thấy.
Những đứa trẻ nhỏ đều đối mặt với những thách thức tương tự nhau nhưng không phải là mức độ từ ngữ ban đầu, mà là mức độ thấp nhất của tiếng ồn hoàn toàn (pure noise). Đầu tiên chúng phải cố sức phân biệt giữa các thành phần cơ bản của lời nói – gọi là âm vị.
Nghiên cứu kinh điển của Peter D Eimas và cộng sự năm 1971 giúp hiểu chắc rằng đứa trẻ có thể phân biệt những âm vị. Eimas nghiên cứu những trẻ khoảng 1-4 tháng tuổi, kiểm tra khả năng phân biệt âm “p” và âm “b”. Phương pháp họ sử dụng để nhận ra sự thay đổi nhạy cảm ở đứa trẻ giữa các âm khác nhau rất tinh tế này. Họ dùng một cái núm vú giả có gắn tiếp vận truyền thanh để đo tốc độ nút của trẻ. Đứa trẻ càng thích thú, nó càng nút nhanh hơn.
Ban đầu, tốc độ nút của trẻ được đo khi chúng được nghe một âm thanh lập đi lập lại, đó là âm “b”. Ban đầu trẻ thấy thích thú và nó nút nhanh hơn. Sau đó trẻ chán và tốc độ nút giảm xuống. Trong điều kiện thí nghiệm: khi chuyển sang âm “p”, và khi vẫn giữ nguyên âm “b”, tốc độ nút của trẻ có thay đổi. Đây là bằng chứng cho thấy trẻ phân biệt được sự khác nhau giữa âm “p” và âm “b”.
Nghiên cứu cho thấy trẻ 1 tháng tuổi cũng có thể phân biệt âm “p” và âm “b”. dựa trên những gì tìm thấy, các nhà tâm lý học cho rằng trẻ được sinh ra với những kỹ năng mà có thể phân loại âm thanh dù chỉ là thay đổi nhỏ. Kỹ năng này là những phần cơ bản để xây dựng khả năng học ngôn ngữ.
Hầu hết các ngôn ngữ chứa khoảng 40 âm vị khác nhau và nhiệm vụ cơ bản của trẻ là làm chủ được chúng. Trong suốt 3 tháng đầu đời trẻ có thể phân biệt được hết tất cả các âm vị, nhưng không ai trong những đứa trẻ sinh ra giống nhau về lời nói. Ở tháng thứ 3, trẻ bắt đầu phát ra những nguyên âm. Chúng chinh phục những âm vị đầu tiên và bước dần lên con đường nói từ đầu tiên.
Đứa trẻ được sinh ra với cái tai tinh nhạy với ngôn ngữ, nhưng điều này bắt đầu thay đổi một cách tinh vi trong khoảng trẻ 11 tháng tuổi. Kết quả tìm được cho người lớn không thể phân biệt nhiều âm vị hơn đứa trẻ. Trước lúc 11 tháng tuổi trẻ làm chủ sự phân biệt các âm vị được sử dụng trong mọi các kiểu ngôn ngữ khác nhau. Nhưng sau đó trẻ 11 tháng tuổi chỉ còn lại một loại âm vị thuộc ngôn ngữ đầu tiên, và mất khả năng phân biệt các âm vị của những ngôn ngữ khác. Trẻ bắt đầu biệt hóa ngôn ngữ của chính mình. Sự chuyên môn hóa trong khoảng 40 âm vị, và theo tiến trình ngôn ngữ, đây là điều quan trọng để khoảnh khắc tuyệt vời xuất hiện: từ đầu tiên trẻ nói.
9/ Sáu kiểu chơi: chúng ta học cách hợp tác với nhau như thế nào
Chơi là công việc nghiêm túc. Nhà tiên phong tâm lý lứa tuổi Lev Vygotsky cho rằng, trong những năm tiền học đường, chơi là nguồn dẩn dầu cho sự phát triển. Thông qua chơi, trẻ học tập và thực hành những kỹ năng xã hội cơ ban. Chúng phát triển cảm nhận về bản thân, học cách tương tác với người khác, cách làm bạn, chơi sắm vai.
Nghiên cứu về các hoạt động chơi của trẻ phát triển như thế nào của Milder Parten những năm cuối của thập niên 20 thế kỷ XX, phân chia sáu kiểu chơi của trẻ từ 2-5 tuổi:
1. Chơi thong thả (Unoccupied play): Trẻ chơi khá yên tĩnh, thường là chuyển động thân thể không mục đích. Kiểu chơi này ít khi xảy ra.
2. Chơi một mình (Solitasy play): Trẻ hoàn toàn bị hút trong việc chơi không để ý những trẻ khác. Thường thấy ở trẻ 2-3 tuổi.
3. Chơi quan sát (Onlooker play): trẻ bắt đầu thích thú cách chơi của trẻ khác nhưng nó không tham dự vào. Có thể chúng chỉ hỏi và nói với những đứa trẻ khác, hoạt động chính vẫn là nhìn.
4. Chơi song hành (Parallel play): trẻ bắt chước cách chơi của trẻ khác nhưng không gắn kết chơi chung với trẻ đó. Chúng có thể dùng đồ chơi giống nhau.
5. Chơi có tính liên kết (assiociative play): bây giờ thì chúng thích chơi với nhau hơn là đồ chơi chúng dùng. Đây là loại chơi đầu tiên liên quan đến tương tác xã hội mạnh mẽ giữa những đứa trẻ khi chúng chơi.
6. Chơi hợp tác (Cooperative play): Một vài cách thức tổ chức có trong cách chơi của trẻ, trẻ chơi có mục đích, trẻ có vai trò nhất định trong trò chơi và thường chơi theo nhóm.
Không giống Piaget thấy hoạt động chơi của trẻ trong khoảng thời gian phát triển nhận thức ban đầu, Parten nhấn mạnh ý tưởng cho rằng chơi là việc học cách quan hệ với người khác.
10/ Lý thuyết về 4 giai đoạn phát triển nhận thức ở trẻ em của Jean Piaget: Trẻ em thu được kiến thức như thế nào
Bốn giai đoạn phát triển của Piaget:
+ Giai đoạn giác-động từ khi sinh đến khoảng 24 tháng tuổi (Sensorimotor stage): Trẻ nhận biết thông qua các giác quan, thích thú với nhữg trải nghiệm mới lạ trên thân thể. Trẻ như một nhà khoa học nhỏ khám phá thế giới bằng cách la hết, lắng nghe, đập phá và nếm mọi thứ.
+ Giai đoạn tiền thao tác từ 24 tháng tuổi đến khoảng 7 tuổi (Preoperational stage): Trẻ có khả năng tư duy biểu tượng, trẻ có thể hiểu hình ảnh, từ ngữ và cái khái niệm nhưng chúng còn chưa biết làm gì trên những điều đó. Trẻ tư duy trực giác, cảm tính.
+ Giai đoạn thao tác cụ thể từ 7 đến 12 tuổi (Concrete Operations stage): Trẻ có khả năng thao tác trực tiếp trên đồ vật và biểu tượng một cách cụ thể, nhưng những hoạt động trừa tượng vẫn còn là thách thức khó khăn.
+ Giai đoạn thao tác hình thức trên 12 tuổi (Formal Operations stage): từ đây trẻ có thể suy nghĩ những thuật ngữ trừu tượng về thế giới. Bây giờ chúng hiểu những khái niệm như giá trị, công lý, trẻ bắt đầu tư duy như người lớn.
Cái nhìn trọng tâm của Lý thuyết của Piaget về sự phát triển nhận thức trẻ em cho thấy trẻ tư duy theo một cách khác cơ bản so với người lớn. Không chỉ đơn giản là trẻ ít hiểu biết hơn, ít kinh nghiệm hơn hay ít năng lực tiến triển; mà là nội dung chất lượng tư duy của trẻ hoàn toàn khác người lớn.
Mặc dù các nhà tâm lý học đến nay vẫn còn đặt nghi vấn cho một số chi tiết đựa trên quan sát và lý thuyết của Piaget, nhưng cái nhìn trọng tâm này luôn được cách nhìn nền tảng được giữ trọn vẹn.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét